CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI

Go down 
2 posters
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:52 am

Khi thực hiện được hoàn hảo, sự thay thế này sẽ có ảnh hưởng nhiều về kinh tế do thay vì dùng dược phẩm, chỉ việc thay thế tế bào hư là xong.

Thường thường đa số các nghiên cứu khoa học đều được thực hiện do ngân quỹ quốc gia đài thọ. Chính quyền Clinton, quan niệm rằng ở giai đoạn sớm nhất, phôi thai chưa phải là sinh vật và nghiên cứu tế bào mầm từ phôi thai đông lạnh sẽ bị tiêu hủy không phản đạo đức, nên đã lấy công quỹ tài trợ. Khi ông Bush lên cầm quyền thì ông ta chặn sự tài trợ đó vì quan niệm bảo thủ, coi phôi thai có khả năng thành bào thai.
Cho nên hiện nay đang có luật cấm dùng tiền công để trợ cấp cho các dự án nghiên cứu dùng tế bào mầm phôi thai trong việc tìm cách điều trị thay thế tế bào. Nhưng sự cấm chắc không tồn tại lâu, vì đã có đề nghị bãi bỏ lệnh cấm cũng như đã có nhiều trung tâm tư nhân tài trợ nghiên cứu này. Nhiều người e ngại nếu để cho tư nhân hoàn toàn tài trợ thì trong tương lai khi nghiên cứu thành công, họ sẽ không tiết lộ kết quả, độc quyền khai thác các trị liệu thay thế và thao túng thị trường. Vì ngại như vậy nên chính phủ Anh đã bỏ tiền tài trợ cho nghiên cứu. Ngoài ra vốn do tư nhân tài trợ cũng không nhiều và nghiên cứu sẽ chậm chạp hơn.


Tế bào mầm để làm gì?

Hiện nay, sự nghiên cứu tập trung vào các tế bào mầm từ phôi thai vì tính cách toàn năng của chúng. Mà lấy đâu ra nhiều phôi thai bây giờ để đủ cung ứng cho các cuộc nghiên cứu?

Một ý kiến nói là lấy tế bào mầm từ các phôi thai dự trữ tại các trung tâm thụ thai nhân tạo. Trong mấy thập niên vừa qua, sự thụ thai nhân tạo đã rất phát triển, khoa học và chính xác. Khi một cặp vợ chồng không thể có con qua giao hoan, bác sĩ sẽ lấy trứng ở người nữ, tinh trùng ở người nam, cho kết hợp trong phòng thí nghiệm rồi đặt vào dạ con người nữ để được nuôi dưỡng thành thai. Những trứng thụ tinh như vậy hiện bây giờ có rất nhiều và được dự trữ đông lạnh tại nhiều trung tâm sinh đẻ mà nhiều cặp vợ chồng không cần đến nữa. Chúng sẽ bị tiêu hủy. Do đó các khoa học gia muốn lấy tế bào mầm từ những phôi thai này để nghiên cứu việc trị liệu thay thế trước khi chúng bị hủy bỏ.

Một số các khoa học gia khác đi xa hơn, muốn tạo phôi thai chỉ dùng cho nghiên cứu trị liệu thay thế. Họ muốn có tế bào mầm từ những phôi thai do kết hợp vô tính (cloning), hoặc xin tinh trùng và trứng, cho thụ tinh trong phòng thí nghiệm rồi dùng phôi thai này cho nghiên cứu, với sự đồng ý của người cho. Theo họ, tế bào mầm như vậy sẽ tươi hơn, hoàn hảo hơn phôi thai đông lạnh.
Với tế bào mầm phôi thai, chuyên gia sẽ khích động để chúng sinh sản một cách không giới hạn, ngõ hầu tạo ra được nhiều thế hệ tế bào giống như tế bào mẹ để dùng trong trị liệu thay thế.

Dù bằng phôi thai nào, khi lấy tế bào mầm là phải tháo rời phôi thai ở giai đoạn còn non và như vậy sẽ hủy diệt phôi thai đó. Đó là cốt lõi của vấn đề đạo đức được đặt ra: phôi thai đã có đủ tư cách như một bào thai chưa?


Khoa học gia và tế bào mầm

Một số khoa học gia ủng hộ việc dùng tế bào mầm từ phôi thai và nghĩ đây là việc bình thường. Hiệp hội Hoa Kỳ về Y Học Sinh Sản cho rằng không có gì là phản đạo đức khi tạo ra phôi thai để dùng vào việc nghiên cứu. Một tổ chức khác tiết lộ là họ đã thụ tinh trứng và tinh trùng của nhiều người tự nguyện cung cấp sau khi được biết phôi thai sẽ được dùng để nghiên cứu.

Dù là sự nghiên cứu dùng tế bào mầm phôi bào trong trị liệu thay thế có thành công thì một vấn nạn quan trọng khác cần được giải quyết. Đó là sự bác bỏ (rejection) của cơ thể khi nhận tế bào của người khác. Người nhận thường phải uống các dược phẩm để ngăn ngừa sự bác bỏ này, mà dược phẩm đó có nhiều tác dụng phụ độc hại.

Để tránh sự bác từ, khoa học đang nghiên cứu sự kết hợp vô tính phôi bào từ tế bào của người thụ hưởng, tương tự như bên Anh, vào năm 1997, người ta ta tạo ra con cừu bằng thụ tinh không giống tính. Thí dụ một người mắc bệnh Parkinson, tay chân run rẩy, mặt vô hồn, vì tế bào thần kinh tiết ra chất Dopamine bị hư hao. Chuyên gia sẽ lấy một tế bào nào đó trên người này với đầy đủ DNA, cho kết hợp với trứng không còn nhân di truyền, trong một ống nghiệm kèm theo vài hóa chất. Nếu mọi sự tiến hành tốt thì một phôi thai mang DNA của người bệnh sẽ được cấu tạo. Tế bào mầm sẽ được tách rời, gò ép thành tế bào thần kinh tiết dopamine, cấy cho người bệnh. Thế là bệnh nhân Parkinson được chữa khỏi.
Mới nghe, như chuyện phong thần, nhưng có nhiều triển vọng thực hiện được với các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại và với sự tiếp tay của các khoa học gia thế hệ sau.

Cách đây vài tháng, hai nhà nghiên cứu Panos Javos và Severino Antinori ở tiểu bang Kentucky đã công bố trong một đại hội nhiều khoa học gia nổi danh rằng họ đã thực hiện được một số kết quả đáng kể để tạo ra một con người đầu tiên bằng thụ thai vô tính. Sự thụ thai này hiện đang còn bị cấm đoán vì e ngại sẽ tạo ra những hài nhi bệnh hoạn, khuyết tật, chết yểu.


Về quyết định của một vị nguyên thủ quốc gia

Sau khi được báo cáo, theo dõi các cuộc tranh luận, và tham khảo ý kiến các khoa học gia, tôn giáo, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã đi đến quyết định là dùng quỹ liên bang tài trợ các nghiên cứu tế bào mầm từ phôi thai đông lạnh, không dùng đến, chờ được hủy bỏ và hiện đang tồn trữ ở một số trung tâm. Ông sẽ phủ quyết và không trợ cấp thành lập trung tâm gây phôi thai mới để lấy tế bào mầm cho nghiên cứu.

Theo ông Bush: “Chúng ta không nên chấm dứt sự sống của một sinh vật vì ích lợi y khoa của sinh vật khác. Tiến bộ của y sinh học là điều đáng khích lệ, hoan nghênh, đáng tài trợ nhưng phải tôn trọng giá trị đạo đức”.

Quyết định này đã nhận được nhiều khen, chê từ các phe bảo thủ cũng như tự do, phe chống cũng như phe ủng hộ nghiên cứu tế bào mầm. Cuộc tranh cãi chắc còn dài và sẽ tập trung ở mấy điểm cốt yếu như:

Liệu một phôi thai còn khả năng trở thành bào thai có đáng bị hy• sinh để lấy tế bào mầm cho nghiên cứu?

Có phải chỉ có tế bào mầm từ• phôi thai mới tốt cho nghiên cứu?
Phôi thai đã có sự sống như một bào• thai chưa?

Có nên dùng tiền đóng thuế của nhân dân để tài trợ cho dự án• nghiên cứu mang nhiều trái ngược?

Và nhiều điểm khác nữa.


Kết luận

Các dự án nghiên cứu tế bào mầm để trị liệu thay thế mới ở trong vòng nghiên cứu. Mới chỉ có hy vọng là nghiên cứu sẽ mang lại vài kết quả tốt, hầu giải quyết được một số nan bệnh. Nhiều nghiên cứu gia uy tín cho là phải đợi ít nhất một thế hệ nghiên cứu gia nữa thì mới hy vọng đạt tới kết quả này.

Khoa học là vậy. Cần thời gian, cần kiên trì với mục tiêu rõ ràng, nhân đạo. Các cụ nhà ta xưa nay vẫn nhắc nhở: kiên nhẫn là mẹ thành công. Mà khi đã thành công thì các nghiên cứu này sẽ làm một cuộc cách mạng vĩ đại trong khoa trị bệnh.


Phần phụ thêm:
Tế bào gốc (cellule souche) là tế bào, do sự phân cắt liên tục, có khả năng sinh ra những loại tế bào đặc biệt: thí dụ những tế bào gốc của máu sẽ cho ra những hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Từ khi mới là phôi đến khi chết, cơ thể người chứa những tế bào gốc nhưng nơi người trưởng thành khà năng phân hóa của chúng bị giảm.
Bs Nguyễn Ý Ðức
Biến tế bào da thành tế bào tim
Tế bào gốc có thể phát triển thành nhiều loại tế bào trong cơ thể.


Vừa qua, Công ty PPL Therapeutics (Mỹ), công ty đã nhân bản cừu Dolly, cho biết họ đã thành công trong việc biến đổi một tế bào da của một con bò thành một tế bào cơ tim. Nghiên cứu này mở ra triển vọng to lớn trong việc tạo ra các mô thay thế dùng trong cấy ghép mà không cần sử dụng đến các tế bào gốc phôi.
Trước đây, muốn có các mô mới để cấy ghép, các nhà khoa học phải dùng đến những tế bào gốc phôi người. Chúng là loại tế bào có thể phân hoá và phát triển thành tất cả các dạng mô khác nhau xây dựng nên cơ thể. Ở tế bào gốc của người lớn, khả năng đó kém đi rất nhiều. Áp dụng kỹ thuật của nghiên cứu mới này, các nhà khoa học có thể sử dụng tế bào gốc của người lớn để phát triển thành các mô thần kinh, cơ tim hay thậm chí các tế bào não, phục vụ cho việc cấy ghép mà không phụ thuộc vào tế bào gốc phôi người.
“Họ là những người đầu tiên nhân bản một động vật, là những người đầu tiên thay đổi cấu trúc gene của một động vật nhân bản. Đến nay họ lại là những người đầu tiên cải biến một tế bào thành một tế bào khác. Họ đã tiến gần tới việc giải quyết được một vấn đề nan giải trong y học, đó là sự thiếu hụt nguồn cung cấp tế bào gốc phục vụ cấy ghép trên người”, Erling Refsum, nhà phân tích công nghệ sinh học cἯspan>
Erling Refsum, nhà phân tích công nghệ sinh học của tổ chức Nomura đã nhận định về thành công này của PPL.
Nghiên cứu mới cũng sẽ làm dịu đi các cuộc tranh cãi "bất tận" giữa các nhà khoa học và những nhóm tôn giáo phản đối việc sử dụng phôi người.
(vnExpress)
Bộ Gene trong cây lúa và triển vọng
Nguyễn Văn Tuấn
Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v.. Đối với người Trung Quốc, vật quí nhất không phải là ngọc trai hay đá quí, mà là hạt gạo.
Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, mà là ở vùng Đông Nam Á, vì vùng này khí hậu ẩm và là điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên qua, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á và Đông Dương, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên [1]. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử [2]. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Ở Trung Quốc và Nhật Bản ngày xưa, chỉ có giai cấp quí tộc hay võ sĩ mới có gạo ăn thường xuyên. Ở Hàn Quốc, người ta có danh từ “annam mi” để chỉ loại gạo nhập cảng từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Á châu là một trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới. Theo thống kê của Cơ quan Thực phẩm Liên hiệp quốc, trên thế giới có khoảng 147,5 triệu ha đất dùng cho việc trồng lúa, và 90% diện tích này là thuộc các nước Á châu [3]. Các nước Á châu cũng sản xuất khoảng 92% tổng sản lượng lúa gạo trên thế giới. Ngày nay, Thái Lan và Việt Nam là hai nước xuất cảng gạo hàng đầu trong thị trường lúa gạo thế giới.
Lúa gạo còn là nguồn lương thực quan trọng cho khoảng 3 tỷ người [hay khoảng 2 phần 3 cư dân] trên thế giới. Trong khi dân số thế giới tiếp tục gia tăng thì diện tích đất dùng cho trồng lúa lại không tăng, nếu không muốn nói là giảm theo thời gian. Do đó, vấn đề lương thực từng được đặt ra như là một mối đe dọa đến sự an ninh và ổn định của thế giới trong tương lai. Theo dự đoán của các chuyên gia về dân số học, nếu dân số thế giới tiếp tục gia tăng trong vòng 20 năm tới, thì sản lượng lúa gạo phải tăng 80% mới đáp ứng cho nhu cầu sống còn của cư dân mới. Trong điều kiện eo hẹp đó, người ta phải suy nghĩ đến một chiến lược để tăng sản lượng lúa gạo. Một trong những chiến lược quan trọng là ứng dụng công nghệ sinh học vào việc gây giống mới và qua đó, hi vọng sẽ đem lại cho thế giới một nguồn thực phẩm mới, an toàn hơn, và có giá trị dinh dưỡng cao.
Nhưng muốn gây giống mới một cách an toàn, người ta cần phải biết cấu trúc sinh học của cây lúa. Ngày nay, qua tiến bộ của khoa học sinh học phân tử, người ta đã biết được rằng, cũng giống như con người, cái đơn vị sinh học cơ bản nhất trong mỗi cây lúa là tế bào (cells). Mỗi cây lúa được cấu tạo bằng hàng tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. DNA gồm có bốn yếu tố hóa học: A (adeline), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gene. Và nhiều gene tạo thành một bộ di truyền, còn gọi là chromosome. Có thể nói một cách ví von bằng cách dùng quyển sách như là một ví dụ: (a) trong sách có 23 chương (chromosome); (b) mỗi chương có nhiều câu chuyện (genes); (c) mỗi câu chuyện có nhiều đoạn văn (exons); (d) mỗi đoạn văn có nhiều chữ (codons); và (e) mỗi chữ được viết bằng các mẫu tự (bases).
Do đó, cũng như con người, gene đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều hành sự sinh trưởng, tồn tại, và bảo vệ thực vật, kể cả cây lúa, chống lại các mối đe dọa từ thiên nhiên. Gene có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cây lúa. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cây lúa phải hoạt động ra sao. Việc tìm hiểu số lượng gene cũng như cơ cấu tổ chức của gene trong cây lúa là một điều tất yếu để mang lại những tiến bộ mới và quan trọng của bộ môn sinh học.
Tuần vừa qua, hai nhóm nghiên cứu (Viện Nghiên cứu Di truyền Bắc Kinh (Beijing Genomic Institute, viết tắt là BGI) và Công ty sinh học Syngenta (San Diego, Mỹ)), công bố rằng họ đã gần hoàn tất công trình tìm hiểu cơ cấu tổ chức của hệ thống di truyền trong cây lúa [4]. Nhóm Bắc Kinh cộng tác cùng một nhóm gồm các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nghiên cứu Di truyền thuộc Trường Đại học Washington (Seattle) nghiên cứu giống lúa có tên là indica, trong khi Công ty Syngenta thì tập trung vào nghiên cứu một giống lúa japonica có hình dạng ngắn hơn giống indica [5]. Đây là một công trình nghiên cứu quan trọng trong khoa học, vì là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, con người có thể toàn bộ cấu trúc di truyền của cây lúa. Khám phá của công trình nghiên cứu này còn có ý nghĩa mang tầm dóc thế giới, vì trong tương lai các ứng dụng dựa vào các dữ kiện này sẽ có ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên toàn cầu. Một số điểm nổi bật trong công trình của hai nhóm nghiên cứu này có thể được tóm gọn như sau:
Thứ nhất, số lượng gene trong lúa còn nhiều hơn cả trong con người. Theo nhóm nghiên cứu BGI, giống lúa indica (còn có tên là bulu ở Nam Dương) có khoảng 45.000 đến 56.000 genes. Còn nhóm Syngenta thì ước lượng rằng giống lúa japonica (còn có tên là sinica) có khoảng 32.000 đến 50.000 genes. Đây là một sự ngạc nhiên, bởi vì từ lâu người ta vẫn nghĩ con người phức tạp hơn thực vật, và do đó số lượng genes trong con người phải cao hơn số lượng gene trong thực vật. Tuy nhiên, qua công trình Human Genome Project (HGP) vừa được công bố năm qua thì con người chỉ có khoảng 30.000 đến 39.000 genes, hay có ước đoán mới đây là 34.000 đến 35.000 genes [6]. Do đó, đứng trên phương diện sinh học, có thể nói rằng con người có cấu trúc di truyền đơn giản hơn cây lúa!?
Thực ra, chưa thể kết luận như thế được, vì cần phải hiểu thêm những khác biệt về cấu trúc di truyền trong con người và trong cây lúa. Kết quả nghiên cứu của nhóm BGI và Syngenta cho thấy cấu trúc di truyền trong con người có vẻ phức tạp hơn cấu trúc trong cây lúa. Tính trung bình, mỗi gene trong cây lúa có khoảng 4.500 mẫu tự DNA, trong khi gene trong con người dài đến cả 7 lần (tức khoảng 30.000 mẫu tự).
Tại sao cây lúa có nhiều gene hơn con người? Câu hỏi này đã là một đề tài suy luận lí thú của giới làm khoa học. Theo một thuyết đang được lưu truyền hiện nay thì thực vậy như cây lúa không có khả năng đi lại (chúng chỉ đứng một chỗ!) và trong hoàn cảnh này, cây lúa là đối tượng, là con mồi của nhiều kẻ thù kể cả sâu rầy và môi trường chung quanh. Do đó, cây lúa được tiến hóa có nhiều genes để chống trả lại những đe dọa này và tự bảo vệ lấy mình. Trong khi đó, con người, khi đối đầu với một sự hiểm nguy, có thể bỏ chạy hay ít ra là di chuyển được. Có lẽ sự khác nhau này giải thích một phần nào về sự khác biệt giữa con người trong cấu trúc di truyền.
Thứ hai, so sánh với loại cải xoong Arabidopsis mà cấu trúc di truyền mới được khám phá thì cây lúa có nhiều genes hơn. Cải xoong Arabidopsis có khoảng 25.500 genes, và mỗi gene, tính trung bình chỉ có khoảng 1.000 mẫu tự. Khoảng 81% các genes tìm thấy trong cải xoong Arabidopsis cũng được tìm thấy trong giống lúa indica, nhưng chỉ có 49% genes trong giống lúa indica được tìm thấy trong cải xoong Arabidopsis. Một kết quả tương tự cũng được ghi nhận khi so sánh giữa giống lúa japonica và cải xoong Arabidopsis.
Thứ ba, mặc dù giữa con người và cây lúa có một số genes có cấu trúc DNA giống nhau, nhưng chưa có bằng chứng nào cho thấy gene được luân chuyển giữa cây lúa và con người. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng trong cuộc tranh luận gần đây về thực phẩm được thay đổi gene, bởi vì nó phủ nhận giả thuyết rằng khi con người tiêu thụ thực phẩm được thay đổi gene, như gạo chẳng hạn, thì những genes trong hạt gạo không có khả năng truyền vào con người. Nói một cách khác, các thực phẩm hay trái cây được thay đổi gene có thể không làm thay đổi cấu trúc gene của con người.
Tuy nhiên, dù công bố này thể hiện một một bước tiến dài trong lịch sử nghiên cứu di truyền, nhưng nó cũng chỉ là một bước đầu, vì từ giai đoạn này đến giai đoạn kế tiếp như ứng dụng gene vào việc chế biến hay tạo giống mới là một thách thức lớn. Thực vậy, dù cho công trình này có hoàn tất nay mai, thì chúng ta chỉ mới biết được cấu trúc di truyền mà thôi. Nói một cách ví von, chúng ta chỉ mới biết được bản đồ, nhưng chưa biết trong từng vùng (trên bản đồ) có chứa gì và hoạt động ra sao. Do đó, giai đoạn kế tiếp là tìm hiểu mối tương tác giữa genes và môi trường, hay giữa quan hệ genes và genes mới là một thách thức lớn và đòi hỏi tri thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả tin học và toán học. Theo chúng tôi, giai đoạn thứ hai này, còn gọi là thời đại sau bộ di truyền (post-genomic era), mới là một thời kỳ hấp dẫn và huy hoàng của di truyền học.
Trong nghiên cứu y học, sau khi bộ di truyền trong con người được công bố hơn một năm qua, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã và đang tiến sâu vào lĩnh vực nghiên cứu các chức năng cơ bản của genes. Nhưng dù thế giới đã chi ra một ngân sách khổng lồ và hàng vạn nhà nghiên cứu bỏ ra nhiều năm làm việc, kết quả vẫn còn rất khiêm tốn. Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm được tất cả các genes có liên quan đến các bệnh phức tạp như ung thư, suyễn, tiểu đường, loãng xương, v.v.. Qua kinh nghiệm nghiên cứu trong con người, có thể nói việc phát triển các giống lúa mới bằng công nghệ di truyền học là một vấn đề lâu dài và thách thức lớn.
Đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp, đứng vào hàng thứ hai trên thế giới về xuất cảng gạo, những vấn đề được đặt ra sau bộ di truyền lúa được công bố cũng là những thách thức lớn. Vấn đề cần được đặt ra là phải tận dụng những kết quả nghiên cứu này như thế nào để đem lại lợi ích kinh tế cho nước nhà. Chúng tôi thấy có thể phát họa một vài phương hướng như sau:
Thứ nhất, cần phải đầu tư nhân lực và cơ sở vật chất vào việc nghiên cứu chức năng của genes (còn gọi là functional genomics). Nói một cách khác, đây là cơ hội để các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu tìm hiểu chức năng của genes trong việc tăng trưởng và sản phẩm. Chẳng hạn như tìm hiểu xem genes nào có khả năng đề kháng sâu rầy, genes nào có khả năng chịu nước/khô, v.v. Tất nhiên, genes cũng không thể vận hành một mình, mà cần phải phối hợp với các genes khác hay môi trường để gây tác động; do đó tìm hiểu mối tương tác này cũng là một hướng nghiên cứu rất cần thiết. Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ sinh học, các nhà nghiên cứu có thể thử nghiệm chức năng của hàng vạn genes trong một con chip điện toán.
Thứ hai, cần phải chú trọng đến bộ môn Thông tin Sinh học (còn gọi là bio-informatics). Đây là một bộ môn mới kết hợp các kỹ thuật máy tính, toán học và di truyền học, để tìm hiểu cấu trúc và hoạt động của các genes trong mạng lưới sinh học. Với một bản đồ genes, cộng với sự tiến bộ về kỹ thuật thông tin học, bộ môn nghiên cứu này có mục đích lâu dài là “cá nhân hóa” gene cho từng đặc điểm hay bệnh lí. Có thể nói đây là một cơ hội cho Việt Nam, vì song song với việc phát triển tin học như hiện nay, cần phải phát triển cả công nghệ thông tin sinh học.
Thứ ba, cần phải đầu tư nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất vào việc nghiên cứu di truyền. Phải nói ngay rằng lực lượng khoa học gia Việt Nam làm việc trong sinh học và công nghệ sinh học còn quá mỏng, chưa có khả năng cạnh tranh cao với các nước khác trong vùng. Do đó, cần phải có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu di truyền học, và từ đó đẩy mạnh việc đào tạo thêm các chuyên viên có trình độ cao trong ngành công nghệ sinh học.
Nói tóm lại, việc công bố bản đồ genes của cây lúa đang mở ra một kỷ nguyên mới cho công nghệ sinh học, và cung cấp một cơ hội cho những ai thích [hay có ý định] dấn thân vào một ngành nghiên cứu hấp dẫn trong thế kỷ 21, thời đại từng được mệnh danh là thế kỷ của công nghệ sinh học.
Tài liệu tham khảo và chú thích:
[1] Xem, chẳng hạn như, “Southeast Asia and Korea: from the beginning of food production to the first states” của Wilhelm Solheim, trong sách “The history of humanity: Scientific and cultural development,” quyển 1: “Prehistory and the beginning of civilisation”, UNESCO/Routledge, London: 1994, trang 468-81.
[2] Sách "Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998, trang 65-71.
[3] Xem các báo cáo sau đây của FAO: (a) “Rice processing industries,” FAO/UNDP Regional Workshop, Jakarta, 15-20 July 1985. Bangkok, FAO Regional Office for Asia and the Pacific. 293 pp.; (b) FAO “Rice” FAO Q. Bull. Stat., 3(1): 20-28, 55, 73; và (c) “FAO production yearbook,” 1989, FAO Stat. Ser. No. 88, Vol. 43. Rome, FAO.
[4] Xem báo cáo khoa học của J. Yu và đồng nghiệp, “A draft sequence of the rice genome (oryza sativa L. ssp. Indica), Tập san Science 2002; 296:79.
[5] Xem báo cáo khoa học của S. A. Goff và đồng nghiệp, “A draft sequence of the rice genome (oryza sativa L. ssp. japonica), Tập san Science 2002; 296:92.
[6] Xem báo cáo khoa học của Ewing B, Green P., “Analysis of expressed sequence tags indicates 35,000 human genes,” Tập san Nature Genetics 2000; 25:232-4.
Trứng gà hay con gà đến trước?
Câu hỏi này xuất hiện thường xuyên.
Trong Nhiên nhiên, những vật sống tiến hóa nhờ những thay đổi của DNA (ADN, Acide Desoxyribo Nucléique) của chúng. Trong con vật như con gà, DNA từ tế bào tinh trùng của con đực và trứng của con cái gặp nhau và kết hợp với nhau tạo thành một ZYGOTE -tế bào đầu tiên của bé gà. Tế bào đầu tiên này phân cắt vô số lần để tạo thành tất cả những tế bào của con vật nguyên vẹn. Trong cùng một động vật, mọi tế bào đều chứa những DNA hoàn toàn giống nhau và DNA đó có từ ZYGOTE.
Gà tiến hóa từ những "không-phải-gà" xuyên qua những thay đổi nhỏ do sự pha trộn DNA đực và DNA cái cái hay do những sự đột biến của DNA khi tạo thành ZYGOTE. Những thay đổi và đột biến này chỉ ảnh hưởng ở thời điểm zygote mới vừa tạo thành. Ðó là, hai "không-phải-gà" kết hợp với nhau và DNA trong zygote mới của chúng chứa những đột biến đã sản sinh ra con gà thật sự đầu tiên. TẾ BÀO ZYGOTE ÐẦU TIÊN ấy đã phân cắt ra để tạo ra CON GÀ THẤT SỰ ÐẦU TIÊN.
Trước con GÀ THẬT SỰ ÐẦU TIÊN ẤY chỉ có những "không-phải-gà". Tế bào zygote là nơi duy nhất có những đột biến DNA để có thể sản sinh ra con vật mới, và tế bào zygote được ở trong trứng gà.

Công nghệ sinh học là một lĩnh vực công nghệ cao
Vietsciences- Nguyễn Lân Dũng 12/08/2005

Chúng ta biết rằng Công nghệ sinh học (Biotechnology) và Công nghệ thông tin (Informatic technology) được coi là làn sóng thứ năm trong lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ. Công nghệ sinh học (CNSH) có 3 cấp độ khác nhau: CNSH truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm , sữa chua, dưa chua, cà muối, pho-mát, tương, nước mắm, men bánh mì...), ủ phân, phơi ải đất, diệt khuẩn và ức chế vi sinh vật có hại... CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ lên men, công nghệ vi sinh vật (cồn, bia, dung môi hữu cơ, bột ngọt và các acid amin khác, acid citric và các acid hữu cơ khác, chất kháng sinh, nhiều vitamin, các loạin vaccin, kháng độc tố, các kit chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học...). CNSH hiện đai chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những loại vi sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng ta không tạo ra được.
CNSH hiện đại bao gồm các lĩnh vực Công nghệ di truyền (Genetic engineering, Công nghệ tế bào (Cell engineering), Công nghệ vi sinh vật/Công nghệ lên men (Microbial engineering/Fermentation engineering), Công nghệ enzym/protein (Enzym/Protein engineering) và CNSH môi trường (Environmental biotechnology)
Cũng cần phân biệt Công nghệ sinh học nói chung (Biotechnology) với Công nghiệp sinh học (Bioindustry).
Công nghiệp sinh học đòi hỏi phải tạo các sản phẩm theo quy mô công nghiệp. Quy mô này có khi cần đến những hệ thống nồi lên men dung tích lớn ( Công ty Vedan-Việt Nam đang sử dụng 12 nồi lên men, mỗi nồi có dung tích tới 700 000 lít, các Công ty bia cũng đang sử dụng các nồi lên men rất lớn), nhưng cũng có khi chỉ cần sử dụng những hệ thống lên men trung bình (như sản xuất thuốc kháng sinh, enzym, vaccin...), thậm chí chỉ cần các nồi lên men nhỏ (dung tích 10-75 lít, để sản xuất một số protein có giá trị chữa bệnh hay chẩn đoán bệnh...).
Nhìn sang các nước khác chúng ta thấy CNSH Việt Nam còn đi sau một khoảng cách khá xa. Trung Quốc đã có những giống lúa lai cho sản lượng tới 15 tấn/ha/vụ (!), có những giống ếch mỗi năm đẻ trứng 8 lần, mỗi lần có thể sinh ra tới 40-60 nghìn trứng (!). Đài Loan có thể tạo ra những giống hoa hồng trên 100 cánh hoa/1 hoa và 350 hoa trên 1 gốc (!). Một Viện nghiên cứu CNSH ở Quảng Châu mà có thể sản xuất tới 70 sản phẩm khác nhau. Họ không cần nhận quỹ lương từ nhà nước mà lại có thể trả lương cao cho cán bộ, nhân viên. Nhật Bản có nền CNSH hiện đại và tạo ra rất nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Có lần đến thăm Tập đoàn KAO tôi không thể không kinh ngạc khi thấy các phòng nghiên cứu của một tập đoàn tư nhân mà to như một...thị trấn (!). Chỉ cần sản xuất được men cellulase và đưa vào bột giặt (làm bung lớp mỏng bên ngoài mỗi sợi vải để giải phóng các chất bẩn) đã đủ làm cho bột giặt KAO nổi tiếng thế giới. Mặc dầu đã có một nền CNSH rất phát triển vậy mà để tạo sức bật cho tương lai Nhà nước và các Công ty tư nhân Nhật Bản đã xây dựng cả một khu nghiên cứu CNSH hiện đại tại một thị trấn hoàn toàn mới ở gần Chiba. Viện nghiên cứu NITE của trung tâm này có một kho lưu giữ nguồn gen vi sinh vật lớn đến vài chục vạn chủng. ATCC (Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật Mỹ) cũng làm tôi sửng sốt khi thấy có tới các Phòng thí nghiệm hiện đại rộng tới 9000m2 trên một không gian gần 32000m2 và với một đội ngũ các nhà khoa học rất lành nghề. Vậy mà ATCC lại là một tổ chức phi lợi nhuận tư nhân (nonprofit privately-held company). Tiền bán giống và các chế phẩm sinh học được dùng để trang trải cho mọi chi phí và cho sự phát triển nhanh chóng của ATCC.. Hiện tại ATCC đang bảo quản trong điều kiện siêu lạnh (trong nitơ lỏng) và trong đông khô vài vạn chủng vi sinh vật , ngoài ra còn có 75 dòng tế bào và 400 loại hạt giống đã đăng ký sáng chế. Các nhà khoa học tại ATCC đang lưu giữ các nguồn gen quý giá không chỉ cho nước Mỹ mà cho toàn nhân loại, vì bất kỳ ai muốn đăng ký mua chủng nào, hạt giống nào cũng được (qua E-mail: news @ atcc.org).

Công nghệ gen
Công nghệ gen CN di truyền còn gọi là CN gen, Kỹ thuật tái tổ hợp ADN (DNA recombination ) thực hiện việc chuyển gen để tạo ra các tế bào hoặc cá thể mang các gen mới nhằm tạo ra những vật chất cần thiết cho con người.
Đó là những thành tựu kỳ diệu nhằm giúp chẩn đoán, cứu chữa hoặc phòng ngừa các bệnh hiểm nghèo, chẳng hạn như việc sản xuất ở quy mô công nghiệp insulin ( dùng cho bệnh nhân tiểu đường ), kích tố sinh trưởng người (BN lùn bẩm sinh ), các loại interferon (chống virus và ung thư ), các nhân tố kích thích tập lạc tế bào (CSF), giới tố bạch cầu (IL), nhân tố gây chết khối u (TNF), nhân tố sinh trưởng biểu bì (EGF), nhân tố sinh trưởng tế bào nội bì mạch máu (PDGF), nhân tố sinh trưởng chuyển hoá (TGF), các chemokin (C, CC, CXC, CX3C), nhân tố kích hoạt plasminogen tổ chức ( tPA ), men urokinase (UK), pro-urokinase (pro-UK ), calcitonin, nhân tố sinh trưởng thần kinh ( NGF), enkephalin (chữa bệnh thần kinh), thymosin (tăng cường miễn dịch ), hemopoietin (chữa thiếu máu) , protein huyết tương (PP) , relaxin (hỗ trợ sản phụ), nhân tố đông tụ máu (BCF), các loại vaccin tái tổ hợp ( phòng chống viêm gan B, viêm não Nhật Bản, dịch tả, sởi, bại liệt, dại, sốt rét, lở mồm long móng...)

CN gen tạo cơ sở điều trị các bệnh di truyền mà trước đây hoàn toàn chịu bó tay: bệnh nhiễm sắc thể thường, bệnh NST giới tính, hội chứng đa bội thể, bệnh đa gen, bệnh phân tử, một số bệnh ung thư...

CN gen hỗ trợ hữu hiệu cho việc chọn giống cây trồng: chọn giống đơn bội, chọn giống đa bội, tạo dưa hấu không hạt, chọn giống có hiệu suất quang hợp cao, chọn giống mang gen cố định đạm (không cần phân đạm), chọn giống mang gen diệt sâu hại ( hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu), chọn giống kháng virus, chọn giống giàu dinh dưỡng, chọn giống đề kháng thuốc trừ cỏ...

GMO
CN gen mở ra tiền đồ to lớn trong việc tạo ra các cây trồng chuyển gen ( GMC= Genetic Modification Containment hay GMO = Genetically Modified Organism): Cây thuốc lá là cây chuyển gen đầu tiên được đưa vào ứng dụng (1983). Sau đó là cây bông kháng sâu và kháng cỏ dại (1986). Khi đó chỉ mới có 5 loại GMC được đưa ra thử nghiệm. Đến năm 1992 số GMC đã tăng lên đến 675 loại. Trong vòng 12 năm (1987-1999) riêng Hoa Kỳ đã đưa vào thí nghiệm đồng ruộng 4779 loại GMC (!). Diện tích gieo trồng GMC trên thế giới vào năm 1995 là 1,2 triệu ha, năm 1996 là 2,84 triệu ha, năm 1997 là 12,55 triệu ha, năm 1998 là 27,80 triệu ha, năm 1999 là 39,9 triệu ha. Trong tổng số diện tích gieo trồng GMC (1998) thì Hoa Kỳ chiếm 72,8%, Argentina- 15,3%; Canađa- 9,9%; Trung Quốc- 0,7%; Australia- o,4%; Mexico- 0,4%; các nước khác- 0,5%. Trong các loại GMC thì đậu tương chiếm 51,7%, ngô- 30,1%; bông- 9,1%; cải dầu- 8,7%; khoai tây- 0,3%. Về đặc tính chuyển gen thì chủ yếu nhằm mục tiêu đề kháng với thuốc trừ cỏ- 71,0%; đề kháng với sâu hại- 27,6%; đề kháng với cả hai- 1,1%; chỉ có 0,3% là nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm.

Các nước hiện có cách nhìn không thống nhất về GMC. Hoa Kỳ mở rộng rất nhanh chủng loại và diện tích gieo trồng GMC. Trung Quốc thận trọng hơn nhưng riêng loại bông kháng sâu hại cũng đã được đưa ra diện tích tới 5 triệu mẫu TQ (15 mẫu TQ = 1ha). Nhiều nước Châu Âu chống lại chủ trương phát triển các loại GMC. Cũng có thể còn do có cả các lý do cạnh tranh thị trường. Chúng ta chủ trương tôn trọng các quy ước quốc tế về an toàn sinh học nhưng mặt khác cũng cần đẩy mạnh các nghiên cứu và ứng dụng trong phạm vi có thể kiểm soát được.

Về công nghệ tế bào các nước đều đã sử dụng rộng rãi kỹ thuật nuôi cấy mô (tissue culture) để tạo ra các dòng cây sạch bệnh (ví dụ khoai tây sạch virus) hoặc nhân nhanh các giống quý hiếm hay là có giá trị kinh tế cao (ví dụ cây hông, cây sung Mỹ , nhân sâm, tam thất...). Việc nuôi cấy tế bào (cell culture) có thể dùng làm nơi lưu giữ nguồn gen, có thể gây đột biến để dùng trong chọn giống. Việc nuôi cấy tế bào động vật còn để dùng làm môi trường sản xuất nhiều loại vaccin virus. Để nuôi cấy tế bào có thể dùng phương pháp nuôi cấy bề mặt, nuôi cấy chìm, nuôi cấy lắc, nuôi cấy huyền phù, nuôi cấy phân đợt, nuôi cấy liên tục, nuôi cấy phân đoạn- liên tục, nuôi cấy fedbatch...

Sử dụng kỹ thuật dung hợp tế bào (cell fusion) có thể tạo ra một tế bào lai, thông qua kỹ thuật nuôi cấy mô có thể tạo ra một cây lai khác loài, ví dụ cây khoai-cà (pomate) trên mặt đất cho quả cà chua, dưới mặt đất cho củ khoai tây (!).

Trong công nghệ tế bào cần chú ý đến thành quả đột xuất về chuyển nhân (nuclear transplantation) và sự ra đời con cừu Dolly của Wilmut vào năm 1997. Đó là thành công mở đầu của việc sinh sản vô tính (cloning) một động vật có vú. Về sau các nhà khoa học khác đã liên tiếp tạo ra bằng phương pháp sinh sản vô tính này các con chuột, dê, cừu, bò, lợn… Nếu thành công trong việc chuyển vào lợn những gen của người để chống lại sự đào thải sau khi ghép phủ tạng rồi cho sinh sản vô tính để tạo ra hàng loạt các con lợn quý giá này thì hoàn toàn có thể mở ra một tiền đồ rộng lớn trong việc dùng phủ tạng của lợn (thận, gan, tim...) để ghép cho người bệnh.

Người ta cũng đã thành công trong việc nuôi cấy các tế bào gốc của phôi thai (embryonic stem cell) và dùng chúng vào các mục tiêu điều trị các bệnh hiểm nghèo , kể cả các bệnh di truyền.
Công nghệ enzym/protein
Về công nghệ enzym/protein người ta đã sử dụng thành công kỹ thuật enzym bất động (immobilized ezyme) hoặc tế bào bất động (immobilized cell) để sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm được tạo thành nhờ hoạt động xúc tác của enzym. Nhờ sử dụng công nghệ gen người tacó thể tạo ra khả năng sản sinh một enzym mới nhờ vi khuẩn hoặc nấm men hoặc là nâng cao thêm lên nhiều lần hoạt tính sản sinh enzym của chúng.

Sản phẩm CNSH có giá trị thực tiễn rất lớn và vì vậy đã đem lại những nguồn doanh thu khổng lồ cho các Công ty CNSH ở nhiều nước. Sau khi sản xuất thành công insulin vào năm 1982 đến nay cơ quan FDA của Hoa Kỳ đã cho phép sản xuất mới trên 50 loại dược phẩm tái tổ hợp gen. Hiện nay ở Hoa Kỳ đã có trên 1300 Công ty CNSH, Châu Âu có 700 Công ty CNSH. Năm 1996 doanh thu chỉ riêng về các dược phẩm tái tổ hợp gen ở Hoa Kỳ đã đạt tới 8 tỷ USD, mõi năm bình quân tăng 13% và dự kiến doanh thu vào năm 2006 là 25 tỷ USD (!). Nhật Bản vào thời điểm 1996 doanh thu về các dược phẩm tái tổ hợp gen đã đạt đến 489,1 tỷ Yen, chiếm 25% tổng doanh thu về các sản phẩm CNSH. Tại Hoa Kỳ năm 2000 doanh thu chỉ riêng các sản phẩm CNSH nông nghiệp đã đạt đến 11-15 tỷ USD (!)

Công nghệ sinh học nano
Công nghệ sinh học còn cần sớm tiếp cận với Công nghệ sinh học nano (Nanobiotechnology) . Đó là việc tạo ra các thiết bị hiển vi có thể đưa vào mọi nơi trong cơ thể để tiêu diệt virus và các tế bào ung thư, tạo ra hàng trăm các dược phẩm mới từ các vi sinh vật mang ADN tái tổ hợp (recombinant ADN), tạo ra các protein truyền cảm (sensor) có thể tiếp nhận các tín hiệu của môi trường sống, tạo ra các động cơ sinh học mà phần di động được chỉ có kích cỡ phân tử protein, tạo ra các chip sinh học (biochip) và tiến tới khả năng tạo ra các máy tính sinh học (biocomputer) với tốc độ truyền đạt thông tin như não bộ (!). Riêng thị phần Công nghệ sinh học nano đến năm 2010 vào khoảng 300 tỷ USD (theo Ian J.Mehr, 2002).

Nước ta có nguồn gen sinh học đa dạng vào loại nhất thế giới; có rất nhiều tiềm năng để phát huy thế mạnh của nghề nông, nghề rừng, nghề biển; có phong phú các nguồn nguyên liệu cho công nghệ lên men (rỉ đường, tinh bột, cellulose và lignin...). Chúng ta có trí thông minh chẳng thua kém ai nhưng nếu được tổ chức lại thì trí thông minh ấy mới có thể biến thành sức mạnh.


GS.TS. Nguyễn Lân Dũng
PCT thường trực Hội Các ngành Sinh học VN
Tổng thư ký Hội Vi sinh vật học VN sinh vật học VN sinh vật học VN

Mời các bạn đóng góp thêm những kỷ thuật tái sinh tâm linh nhé ...
ÁNH SÁNG – T2 – ÚC CHÂU
Xin chào Bác Hùng Sơn, các Huynh Đệ Tỉ Muội,

Thiết nghĩ là Mục Sống Chết Sự Đại của Huynh ANHSANGT2 rất đồ sộ về kiến thức , do vậy ta nên chuyển lên Mục Sưu Tập thì mới hợp, chứ không phải trò chuyện linh tinh nữa rồi.

Thân ái
Huynh hp571 nói đúng rồi, nhưng tại hạ không biết làm cái vụ này ra sạo huynh sử lý đi nhé.

thân ái
Hùng Sơn
Kính chào huynh ANHSANGT2,

Hôm nay mới hân hạnh được gặp và đọc cuộc Tranh Luận mà chủ đề là do huynh AST2 đưa ra.

Tiểu đệ rất cảm phục cuộc Tranh Luận này, cảm phục những tư liệu của sư phụ Hùng Sơn, sư phụ HP571, TALKATIVE, và của ANHSANGT2 ... và chắc chắn cuộc Tranh Luận này sẽ tìm ra được Lời Kết Luận, chắc chắn là như thế, nhưng sẽ vào ngày ..., tháng ..., năm 2030. Mọi người hãy yên tâm, mình nói chắc chắn mà, chỉ 30 năm nữa thôi.

Khi sáng lập Diễn Đàn này, chắc sư phụ cũng mong có những cuộc Tranh Luận như vậy, nên không có gì lạ cả.

Hôm nay tiểu đệ chỉ làm xong việc là in các lý lẽ ra giấy về nhà đọc thôi, chưa có ý kiến gì cả.

Nhưng ngay hôm nay vừa đọc báo online xong, và có ngay một dẫn chứng khoa học để chứng minh cho AST2 thấy được: Bộ não là vật chất của tâm linh, và bộ não có thể di chuyển từ người này sang người khác. Kết luận: TÂM LINH CÓ THỂ CHUYỂN TỪ NGƯỜI NÀY SANG NGƯỜI KHÁC.

Xin xem bài báo sau đây. Chắc là dịch từ báo chí nước ngoài thôi, chắc huynh AST2 search trên Google sẽ tìm được bản chánh.

http://vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/2007/03/3B9F3D4B/

Kính chào các sư phụ, kính chào các huynh, tỷ, đệ, muội.
Xin chào bạn ANHSANGT2,
Chúng ta bắt đầu trao đổi về đề tài do bạn đưa ra.

1. Đề tài của bạn Chết Là Hết. Trước hết xin hỏi bạn muốn nói cái gì Chết? Tế bào chết, Nội tạng chết, Tim phổi chết, hay Não chết. Bởi vì mỗi bộ phận cơ thể chết vào thời điểm khác nhau. Thứ hai hỏi bạn biết Chết ra sao không?

Theo Y học định nghĩa cơ thể con người được coi là Chết khi tim ngừng hoạt động (điện tâm đồ bằng 0), và não ngừng hoạt động (điện não đồ bằng 0). Khi đã chết thì quan sát bằng mắt thấy ngưng thở và đồng tử mắt giãn tối đa.

(Tham khảo tài liệu)
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%BFt
http://www.linacre.org/death.html
và các bài đăng trên TGBN

Trong Y Sinh học, cơ thể được xác định là chết thì các bộ phận cơ thể vẫn còn sống. Người ta dùng các bộ phận cơ thể người chết để cấy ghép cho người còn sống, từ đó ra đời khoa cấy ghép gan, thận, tim, võng mạc, tủy xương v.v...

Kỹ thuật ngày nay cho phép hạ nhiệt độ xuống -197 độ C (độ âm) để làm ngưng mọi hoạt động sống của tế bào, trạng thái giống như đang chết. Sau đó bằng kỹ thuật rã đông, tế bào sẽ hồi phục và sống trở lại. Kỹ thuật này áp dụng trong công nghệ lưu trữ tinh trùng, gọi là kỹ thuật tinh đông viên mọi người nông dân chăn nuôi đều biết tới.

Về cấu tạo Hóa học, theo định luật bảo toàn khối lượng Lavoisier, một người có cân nặng 70kg, sau khi chết vẫn còn đủ 70kg vật chất gồm canxi, sắt, phốtpho, mănggan, cacbon ... và nước. Trên ngôi mộ người chết thường xuất hiện ngọn lửa phốtpho cháy lập loè gọi là ma trơi.

Xét về lĩnh vực Âm nhạc, Trịnh Công Sơn nói: “ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai vươn hình hài lớn dậy “ là ý nói đến những hạt bụi cacbon, hydro, oxy, sắt, phốt pho, mănggan ... như nói trên. Nhưng nhạc sĩ Minh Kỳ và Lê Dinh khẳng định chắc chắn rằng “ Người nhớ cho ta là cát bụi trở về cát bụi. Xin người nhớ cho “ trong nhạc phẩm Trở Về Cát Bụi quá thân quen với mọi người.
Tham khảo:
http://www.vmdb.com/home_in_frame.js.../www.vmdb.com/

Về Tâm lý học, người chết để lại sự tổn thương tình cảm, sự đau xót cho người thân không dễ gì quên. Một người đã chết nhưng hình ảnh của người ấy vẫn còn trong ký ức của mọi người, làm ta nhớ thương người ấy.

Như vậy xét theo nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như đã dẫn chứng trên đây đều kết luận rằng: CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT.

2. Bạn AST2 cho rằng
" ...mọi người đóng góp và tìm hiểu một cách rộng rải cởi mở , không bị những gò bó về tôn giáo , tín ngưởng , phong tục tập quán hay bị áp lực hữu hình cũng như vô hình của các thế lực thế quyền và thần quyền ..."

Xin nói rằng Chết là hiện tượng tự nhiên, tuân theo quy luật khoa học tự nhiên không bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, giai cấp hoặc mê tín, những yếu tố này thuộc về lĩnh vực khoa học xã hội. Phải hiểu thấu đáo và không được nhầm lẫn những khái niệm thuộc hai lĩnh vực khoa học hoàn toàn khác biệt này.

Năm 2007 được tính theo năm Thiên chúa, nếu tính theo Phật lịch là năm 2551. Hồi giáo ra đời sau, khoảng thế kỷ thứ VII. Có nghĩa là các tôn giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm, vậy trước khi tôn giáo ra đời, con người có chết hay không? Vua Hùng cách đây 4000 năm có chết hay không?

3. Bạn AST2 cho rằng
"...theo phong trào hiện nay , nếu nói chết là còn , thì là việc dể dàng , vì có cả khối kinh điển để dẩn chứng , và được vô khối người hùa theo..."

Quan niệm về Chết và Sống hiểu như thế nào chăng nữa cũng không thể gọi là phong trào được. Phong trào theo nghĩa từ điển là những hoạt động vào một thời điểm nhất định, như phong trào nhạc Jazz, phong trào Cần Vương, phong trào đấu tranh giữ nước, phong trào Hip Hop v.v...

Những quan niệm về sống và chết là vấn đề có từ thời cổ đại đến nay mấy ngàn năm chưa chấm dứt, được các triết gia Ai cập, Hy lạp, La mã, Ấn độ, Trung quốc chép thành sử sách, kinh kệ truyền từ đời này sang đời khác, làm sao có thể gọi là “phong trào” như bạn AST2 sử dụng được.

4. Bạn AST2 cho rằng “ ... với thời đại khoa học tiến bộ cùng thể chế tự do dân chủ ngày nay, chúng ta có thể mạnh dạn ...”

Xin thưa với bạn rằng khoa học tiến bộ so với cái gì? Nếu so sánh với sự ngu giốt, lạc hậu, theo nhận thức của Hai Lúa ra thành phố thì bạn nói đúng. Những nhà khoa học không ai dám tự nhận mình giỏi cả. Nếu một người phát biểu rằng “ càng học càng ngu “ thì người đó sẽ trở thành bác học lỗi lạc.

Khoa học ngày nay đưa người vào không gian vũ trụ sống và làm việc, đi về như đi chợ. Khoa học ngày nay đã biết Lỗ Đen Vũ Trụ là gì v.v... Nhưng khoa học ngày nay còn mù tịt những vấn đề nằm ngay trong lòng bàn tay con người. Khoa học chưa thể chế tạo ra da, xương và gân của bàn tay, cho nên con người chưa có bàn tay nhân tạo và phải chấp nhận sự khuyết tật như một định mệnh.

Năm 2007 khoa học vẫn chưa hiểu biết con virus H5N1, đang lo lắng một trận đại dịch cúm trên toàn thế giới sẽ cướp đi 50 triệu người. Khoa học chưa hiểu được bản đồ gien con người có hàng triệu năm nay v.v... nên chấp nhận bệnh tật dù được báo trước trong DNA. Khoa học cũng chưa thể chế ngự đuợc các trận động đất và sóng thần, đành chấp nhận thảm họa sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 với 200 ngàn người chết. Khoa học đã tiến bộ chưa hử, bạn AST2.
----------

Qua 4 vấn đề nhỏ phân tích trên đây, cho thấy vốn kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội của bạn AST2 đang có nhiều vấn đề. Bạn còn nhầm lẫn nhiều khái niệm cơ bản nhất của khoa học hữu hình. Làm sao có thể bước tiếp sang lĩnh vực vô hình được. Trong bối cảnh như vậy mà bạn AST2 vội vàng đưa vấn đề thời đại lên bàn mổ, thì hãy nhớ đọc chuyện cười dân gian “ phúc thống phục nhân sâm “ trước đã.

Đây là lý do mà sư phụ Hùng Sơn không đồng ý toàn bộ ý kiến của bạn.
Đây cũng là lý do các huynh tỷ trong diễn đàn TGBN ngán ngẩm không muốn lên tiếng. Hãy nghiệm câu nói Đức Khổng Tử có dạy rằng:

Người đáng nói mà không nói, mất người.
Người không đáng nói mà nói, mất lời.

Những bài viết trên Diễn Đàn TGBN đang cố gắng đặt cơ sở từng bước trên hai phương diện lý thuyết và thực nghiệm về lĩnh vực tâm linh, một lĩnh vực khoa học vô hình. Hiện nay chưa có ai đủ cơ sở lý thuyết giải thích lĩnh vực tâm linh, kể cả Hội Nghiên cứu Cận tâm lý Úc ( http://www.answers.com/topic/austral...hical-research
), nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở thực nghiệm về tâm linh, đủ chứng minh cho những điều cần biết. Thực tế có nhiều vấn đề chẳng cần giải thích mà chỉ chấp nhận bằng thực nghiệm. Ví dụ khi bạn AST2 ngồi xem TV ở nhà, bạn có cần thiết quan tâm cấu tạo bên trong chiếc TV hay không? Hay bạn chỉ việc chọn số mấy cho kênh mấy mà thôi. Từ ngàn đời ông bà ta đã nói rằng:

Trăm nghe không bằng một thấy,
Trăm thấy không bằng một sờ.

Nếu bạn AST2 thực sự muốn hiểu biết những vấn đề tâm linh, chỉ cần về gặp tỷ LANFRANCE yêu dấu của TGBN cho sờ một lần tận tay tận mắt bảo đảm tin liền. Không cần tốn vạn lời như câu nói trên.

Kính chào bạn.
(Những vấn đề khác nếu rảnh tôi sẽ thảo luận với bạn tiếp nhé, mệt đứt hơi rồi đây)
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:53 am

Chào các Thầy và các Bạn ....
Chào huynh Love Tâm Linh ,

Trước tiên , ngu đệ xin được bái phục tinh thần hăng hái , hùng tráng và bầu nhiệt huyết sôi động của Huynh đã giúp làm ấm lại chủ đề SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI ....linh tinh nầy ....
Vì sở học và kiến thức - kinh nghiệm của ngu đệ có giới hạn cộng thêm cổ nhân có nói :
Văn bất tận ngôn – Ngôn bất tận ý – Ý tại ngôn ngoại
Nên vấn đề tâm linh lại càng khó hơn , khi muốn diển tả ra bằng văn tự để trình bày những gì mình muốn nói ; do đó , vấn đề trình bày không khỏi xảy ra ít nhiều hiểu lầm và không tránh khỏi sơ sót ; nếu có những gì còn chưa đầy đủ và thiếu sót , mong Huynh bổ sung thêm , như vậy vấn đề sẽ thêm sáng tỏ , giúp cho mọi người có được cuộc sống nhân sinh thêm khai phóng , vui vẽ , hạnh phúc và phong phú yêu đời hơn ....
Những bài tham luận của ngu đệ đã đăng trong quá khứ chỉ có tính cách tham khảo , là một viên ngói để dẩn ngọc , mục đích để mời gọi nhiều người đóng góp và san sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm tâm linh của mình , để giúp cho diển đàn càng trở nên đúng nghĩa là một diển đàn tâm linh chuyên môn ngày càng có giá trị , hơn là một nơi chỉ lưu trử và sưu tầm , ghi nhận những dử kiện và những chứng cứ về tâm linh đơn thuần tầm thường như những diển đàn phổ thông khác , mà không có một kiến giải , chứng minh ra được những nguyên lý , động lực đằng sau và những cấu trúc siêu hình tiềm ẩn bên trong của những hiện tượng tâm linh và siêu linh nầy .
Với mục đích trên , mọi sự tranh luận hơn thua , khôn ngoan và ngu dốt , có học và không có học , địa vị và khoa bảng , danh dự và đạo đức , hèn hạ và cao quí .... đều không giúp ích và liên quan nhiều cho cái biết vô lậu tâm linh của con người trên bước đường tiến hóa ...và ngu đệ không là gì cả , ngu đệ chỉ là một con số không to tướng , là một chiếc thùng rổng , lúc nào cũng mong ngửa thùng để mong hứng nhận được những trí huệ và kiến thức kinh nghiệm vô lậu của mọi người ban phát ....Thiện tai ...Thiện tai.....
Chỉ có tình thương yêu muôn loài , hòa mình vào vạn vật , tâm vật hợp nhất , giới – định - huệ của thiền định , bi – trí –dủng của thiền gia và phục vụ tha nhân của mọi người ; hảy tha thứ và giúp đở lẩn nhau trong ánh sáng của trí huệ và giải thoát , thì vấn đề gì cũng sẻ được giải quyết dể dàng ,vui vẻ và êm đẹp .....
Sau đây ngu đệ xin có vài tư tưởng góp ý để Huynh và mọi người tham khảo về những gì Huynh đã gợi ý và chỉ dạy ....mong mọi người bổ sung thêm cho hoàn chỉnh ....
- Chứng cứ : Vấn đề thay đầu người , dù có thành công , nhưng cũng không thể làm cho tâm linh của con người bất tử được , vì những gì là vật chất thì phải chịu qui luật đào thải của thời gian , sanh – trụ – hoại – diệt , thành – trụ – hoại – không . Cái đầu củ mang đầy kiến thức kinh nghiệm của người nầy sẻ già và sẻ bị hư hoại mà không được tái tạo hay trẻ trung lại trên một cơ thể mới được và khi cái đầu nầy bị hư hoại thì tâm linh , kiến thức kinh nghiệm của cái đầu nầy sẻ bị mất đi như củi hết thì lửa sẻ tắt vậy .
Kiến giải : Theo lý giải và ấn chứng của Mật Tông , đầu con người là được cấu tạo bởi phần vật chất thô kệch và phần tâm linh , kiến thức , kinh nghiệm của con người được cấu tạo những rung động phong tâm vi tế ; nên khi thể xác con người không còn dùng được thì phần tâm linh thể nầy sẻ di chuyển qua một thể xác mới bằng phương pháp phowa , đoạt xả hay tá thi hoàn hồn của đạo gia .
Nếu tạm thời , dùng khoa học thông tin ngày nay để nói , thì khi chiếc máy vi tính 386 hay 486 đã củ và yếu thì ta có thể di chuyển phần mềm data qua máy Pentium 4 bằng memory stick , blue tooth , qua mạng hay copy nối tiếp qua hai máy vi tính vậy .
Và chiếc máy củ ta sẽ bỏ nó và nó sẻ bị trả về với cát bụi ......nhưng phần vi tế data của nó sẻ bất tử nếu ta muốn giử nó theo phương pháp trên đến bao lâu cũng được , nếu con người muốn thế .
- Gợi ý 1 của Huynh Love Tâm Linh :
Cái chết ở đây , ngu đệ muốn nói là cái chết về tâm linh , về linh hồn , phần siêu linh bên trong của con người , mà vấn đề nầy được trình bày rất nhiều trong các tôn giáo , tuy nhiên nó chưa đầy đủ và chưa làm thỏa mản , chưa đáp ứng cho những nhu cầu hiếu tri và thực hành sâu kín của một thiểu số hành giả có trình độ tu tập tâm linh cao mà chưa đắc đạo , đả từng kinh nghiệm qua những vấn đề tâm linh trong cuộc đời của mình , mà vì một lý do cá nhân , xả hội , tôn giáo , uy tín nào đó , mà không thể công khai hóa vấn nạn của mình Chết là hết .
Trong bài hát TRỞ VỀ CÁT BỤI theo nhận xét riêng của ngu đệ , tác giả cũng ray rứt , dùng âm nhạc dám nói lên sự thật , về sự chết là hết của thân phận con người , sau một đời rong chơi , biểu hiện cho kiếp sống phù du , mộng- tưởng- bào -ảnh của con người ; và vào lúc cuối đời của mổi người , mà vẩn chưa có giải đáp và chưa có lối thoát cho tâm linh , linh hồn mình và cuối cùng chỉ lấy cái chết của riêng mình để thể nghiệm nó , thì thiệt đã quá muộn ...
Còn vấn đề những ký ức về người chết của người sống thân cận , là một trong những kho lưu trử tâm linh tốt cho những Thầy pháp , Thầy bói , nhà ngoại cảm .......xử dụng khi cần đến , và chỉ những người nầy biết mà thôi .
Vấn đề cấy ghép dù thành công cũng không thể làm cho tâm thân của con người bất tử được , vấn đề bất tử ở đây , ngu đệ muốn nói tới sự bất tử của ý thức thể , thần thức , sự thức giác ta là ta của con người , A là A chứ không phải như cách nói của các thuyết khác về thể xác , tình cảm , ý thức , kiến thức của con người đều bị tan nát và hủy hoại , chỉ có linh hồn trống không là tồn tại và đi đầu thai , để rồi phải được tái sinh ra trong sinh nặng đẻ đau , và phải khổ nhọc để học lại những kiến thức , kinh nghiệm qua đau khổ nữa .......và linh hồn đó hoàn toàn là một người mới , không có liên can gì với người củ và con người mới nầy được tô son trét phấn với kỷ thuật cao luận giải mê đồ , ảo tưởng , mê tín của tín ngưởng con người về sự tái sinh của người củ ....đó là ngu đệ không muốn nói đến vấn đề nầy vậy ; do đó theo ngu đệ nhận thấy chỉ có kỷ thuật clone và chuyển di thần thức của Mật Tông và tá thi hoàn hồn của Đạo Gia hay trong tương lai có những phám phá , phát minh hay đem hệ thống hóa những kỷ thuật tâm linh nầy của Mật tông và đạo Gia lại cho rỏ ràng , hoàn hảo và phổ cập hơn , thì lúc đó con người có thể tự hào là bất tử vậy .
Linh hồn con người chết là hết hay linh hồn chết là còn , cũng như con gà có trước hay cái trứng có trước , là những kiến giải của thế giới nhị nguyên , là trò chơi mê hồn trận của cái trí của con người ; với hân hạnh là hội viên của diển đàn tâm linh chuyên môn của TGBN , ít nhiều ngu đệ muốn học hỏi và chia sẻ những kiến giải tâm linh và những thành quả huyền học , huyền thuật sở đắc của mọi người ; nên sự kiến giải về cái chết sẻ là những kiến giải tâm linh , trực giác và nhất nguyên của linh hồn , là những kiến thức và kinh nghiệm trong vô tự chân kinh ; mà như khoa học y học ngày nay không thể chụp hình hay chứng minh được hệ thống kinh lạc trong thân thể sống của con người , mà hệ thống kinh lạc nầy , đã được tìm ra nhờ bởi những chứng nghiệm tâm linh của những hành giả tu tập tâm linh ngày xưa và nay đã cảm nhận , ấn chứng trong những lần thiền định , khi đi xuyên qua các thể xác , phách , vía , trí , thượng trí , kim thân , tiên thể .....của mình vậy .
- Gợi ý 2 của Huynh Love Tâm Linh :
Ở đây ngu đệ muốn nói là mọi người cùng đóng góp tham khảo về cái chết của tâm linh hay sự bất tử của tâm linh ( bao gồm kiến thức , kinh nghiệm , tình cảm của cá nhân con người ) xuyên qua kinh nghiệm , ấn chứng của cá nhân mình , mà không bị cặp kính màu , hay mang cặp kính màu của qui ước xả hội , cùng phong tục tập quán và tín ngưởng , làm méo mó hay ảnh hưởng đến nhận xét và kinh nghiệm của mình .

- Gợi ý 3 của Huynh Love Tâm Linh :
Ở đây ngu đệ xin thua , vì thấy không cần thiết và không ích lợi gì cho mục đích chính của đề tài , nên miển tranh luận với Huynh về từ ngữ phong trào hay thói quen kiến giải về vấn đề sống chết theo những gì tín ngưỡng và tập tục truyền thống của xả hội con người ; mà chúng ta nên focus và tập trung đóng góp những kiến giãi và trình bày những kinh nghiệm ấn chứng của mọi người về sự sống chết của phần tâm linh con người với những ấn chứng và kiến giải mới , chứ không lập lại hay nhai lại những kiến thức củ mà mọi người đã biết đến nhiều , xuyên qua Tử thư Tây Tạng - Ai Cập , những kiến giải của tôn giáo hiển giáo hay những chứng cứ về trạng thái cận tử của khoa học qui ước về thể xác của con người .

- Gợi ý 4 của Huynh Love Tâm Linh :
Ngu đệ công nhận rằng khoa học ngày nay chưa giải thích hết những hiện tượng tâm linh của con người cùng những hiện tượng siêu linh của vũ trụ , cũng như khoa học ngày nay chưa phải là vạn năng ; nhưng chúng ta phải công nhận nhờ khoa học tiến bộ , nên nó đã kéo theo những thay đổi về cái nhìn về tâm linh của con người , minh bạch hóa những bí mật của mê tính dị đoan , loại bỏ những tập tục và tín ngưỡng nô lệ hóa hay hy sinh sinh mạng con người , một cách dả man , gián tiếp hay trực tiếp , cho những cuộc tế lể và những niềm tin mù quáng mù quáng ; nhờ khoa học tiến bộ đã làm thay đổi những kết cấu của xả hội , đưa xả hội từ chế độ độc tài phong kiến sang một xả hội tự do khai phóng dân chủ và đa nguyên , để mọi người có thể tham gia mang tài năng để cải thiện cuộc sống nhân sinh , mang thịnh vượng , hạnh phúc lành mạnh hóa cuộc sống gia đình và xả hội ....Nhờ thể chế tự do – dân chủ và đa nguyên đó , mà ngày nay những tâm tư tâm linh ẩn áo của con người được đưa ra tham luận và bàn luận , cũng như những cấm thư như Vạn Pháp Quy Tông , Thư Phù Ếm Đối , Huyền Thuật và Ngoại Cảm hay Cận Tâm Lý được đưa ra khỏi phòng thí nghiệm và được đại chúng hóa , nhờ đó nó đã nâng cao trình độ hiểu biết và nâng cao tâm thức của con người về vấn đề tâm linh và điển hình là diển đàn TGBN của chúng ta được hình thành , đồng thời không phải những hội viên bỏ thời giờ quí báo của mình vào đây , để xem lại những chứng cứ siêu nhiên tâm linh mà không có một kiến giải lợi ích gì cho những nhu cầu hay những nan đề tâm linh của mình gặp đã gặp phải .
Có lẻ chúng ta vào đây , không phải giống như chỉ ngồi xem TV và đổi đài mà thôi , mà không quan tâm đến phần cấu tạo những dòng điện tử bên trong làm cho màn hình và âm thanh sinh động , thì chúng ta chỉ cần đến những diển đàn phổ thông khác , có đăng và sưu tầm nhiều hiện tượng và những chứng cứ về tâm linh mà không có kiến giải hay trình bày những ấn chứng , kinh nghiệm tâm linh nào hết . Thì , thì giờ của ta sẻ bỏ ra vô ích vì thân mạng của chúng ta không cho phép ta làm điều đó , vì đời sống con người quá ngắn ngủi và chúng ta sẽ không tìm đến quần tụ ở diển đàn TGBN để làm gì , mà ngồi ở nhà xem TV sướng hơn .
Ngu đệ hoàn toàn đồng ý với Huynh về đoạn “ Những bài viết trên Diễn Đàn TGBN đang cố gắng đặt cơ sở từng bước trên hai phương diện lý thuyết và thực nghiệm về lảnh vực tâm linh ........Thực tế có nhiều vấn đề chẳng cần giải thích mà chỉ chấp nhận bằng thực nghiệm ( và chúng ta có đi vào thực nghiệm hay không , và những người đã có cơ hội thực nghiệm , có sẳn lòng trình bày những kinh nghiệm thực nghiệm tâm linh nầy cho mọi người học hỏi để rút ngắn và chấn chỉnh sai lầm thực hành tâm linh của mình hay không , như cách làm của diển đàn Đạo gia khí công .com .....)” mà theo ngu đệ , những hội viên trong diển đàn nầy sẻ là hạt nhân tạo sự hiện thực cho nó ; Vấn đề quan trọng chỉ là Cấp cấp theo luật lệnh của Thầy Hùng Sơn .....mà thôi .....
Qua những góp ý trên , chúng ta khi đưa ra những chứng cứ về những hiện tượng siêu hình tâm linh của con người và vũ trụ chung quanh , chúng ta nên trình bày những kiến giải tâm linh của mình , theo cách Tác giả Đổ Kiên Cường ở VN , đã trình bày trong những quyễn sách nghiên cứu của ông về những Lý Giải Hiện Tượng Dị Thường Tâm Linh ...., chứ chúng ta không nên đưa quá nhiều chứng cứ , mà không có lý giải và kiến giải hay trình bày những kinh nghiệm ấn chứng tâm linh của mình , thì chỉ làm tăng thêm niềm tin mù quáng , nô lệ về thần quyền và sợ hải những lực lượng siêu nhiên , mà thời cổ đại sơ khai tiền nhân ta đã mắc phải .

Do đó , chúng ta có dám nói và dàm làm hay không , để khi đúng thời và đúng lúc , thì những vị Thầy Tâm Linh trong các môn phái Tả và Hữu trong diển đàn nầy nói riêng và các vị Thầy hay Chuyên gia Tâm Linh , Ngoại Cảm nói chung ở mọi nơi trên thế giới và các vị Thần Thánh trên các cỏi trời sẻ cùng tham gia và trình bày những ấn chứng tâm linh của mình , để tất cả cùng thống nhất , đồng tâm , tập trung trí huệ phục vụ cho hạnh phúc và tiền đồ sáng lạng của nhân loại ....Chứ không có cái chuyện ngán ngẩm , mà không muốn lên tiếng như sự đại diện phát ngôn của huynh với sự ủy quyền lúc nào của các Thầy ban cho Huynh , mà mọi người không nghe nói đến ?

Cám ơn , nhờ vào thiện ý của Huynh giới thiệu , ngu đệ cũng mong có dịp nào về VN , nhờ tỷ LANFRANCE ban phép Quán Đảnh , để tay lên đầu , dùng nội lực đã thông kinh mạch , khai mở huệ nhản , khai sáng phần tâm linh cho ngu đệ , thì phước đức của Huynh to lớn vô ngần , cứu một kẻ vô minh bằng xây vạn kiểng chùa ...Thiện Tai .....Lành Thay .....Lành Thay ......Nhưng không biết tỷ LANFRANCE lúc đó có mở lượng hải hà mà thâu nhận ngu đệ làm đệ tử hay không , vì ngu đệ thấy lòng mình vẩn còn vân vướng bụi trần và còn nhiều vô minh lắm lắm ....

Cám ơn sự góp ý của Huynh ....thương cho roi cho vọt ....ghét cho ngọt cho bùi .......Nếu có gì thiếu sót , cúi xin Huynh bổ túc cho .......Bầu ơi thương bí đến cùng , tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn .

ÁNH SÁNG T2
thấy các sư huynh bàn bạc sôi nổi về chuyện sống chết và tiền kiếp qúa , khiến tại hạ ham vui nhào vô bon chen chút ! Theo những kiến thức tại hạ thu thập được thì con người được phân ra hai phần thế này , một phần là thức thần , là phần thể xác cốt thịt , chúng ta thường ngày phải ăn , sinh hoạt , chịu sự chi phối của hàng loạt mối quan hệ : gia đình , xã hội . Chúng ta có hỉ ,nộ, ái, ố, bi, ai, hoan, lạc . Rồi xác thịt chúng ta từ một trẻ sơ sinh nhờ sự nuôi dưỡng của vật chất dần lớn lên rồi trưởng thành , rồi bệnh tật rồi già rồi chết .Sự chi phối mọi suy nghĩ của ta theo quan niệm của đạo giáo là Thức Thần nằm ở tâm . Tóm lại phần thể xác phàm trần là gồm tất cả những nghiệp duyên từ tiền kiếp trước bồi đắp lên ta , lớn lên ta lại bị chi phối bởi các hàng loạt mối quan hệ , những định kiến , những suy nghĩ đã được hình thành từ hàng vạn nghàn năm trước , rồi ta chết đi trả lại những gì đã tạo đắp nên ta , thân xác ta thối rữa trả lại cho tự nhiên những gì ta đã lấy , song trong qúa trình sống của ta , ta đã tạo nên bao nhiêu nghiệp duyên nữa mà sẽ ảnh hưởng đến những thế hệ sau ta. Phần thứ hai , còn gọi là bản chất tiên thiên không vướng bận , sự luân hồi không phải là hình hài cốt nhục của ta mà chính là sự luân hồi của bản chất tiên thiên này . Song con người ta nhiều người không nhận ra được trong cơ thể mình còn có bản chất tiên thiên chân nhất trong người nữa . Sự luyện tập của tất cả các pháp môn nhằm mục đích gạn sạch thể xác phàm trần để thể xác tiên thiên không vướng bụi này. Khi quý vị làm chết đi thức thần , làm trong sạch thể xác phàm trần được đắp bởi vô số nghiệp duyên đó , lúc đó nguyên thần hiển hiện thì quý vị sẽ thấy được quá khứ vị lai của ta bởi thực chất quá khứ hay tương lai hay thực tại cũng chỉ được tạo thành từ vô số nghiệp duyên của từ muôn vạn ngàn kiếp trước
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Khi Nguyên Thần đã biển hiện , khi Bản lai Diện mục đã lộ bày và khi thể xác nầy tan rả , thì tâm linh của mình làm sao để không bị tan mất vậy Huynh Lảmg Tử Tam Phong ; sao Huynh không bật mí luôn cho ngu đệ hoc̣ hỏi thêm ; ngu đệ tham sinh húy tử , sợ chết lắm ....vì ngu đệ còn muốn sống dai và minh mẩn đề̉ tìm hiểu và học hỏi thêm , trước khi ca bài trở về cát bụi và nếu có tái sinh thì ngu đệ làm biếng học lại mấy bảg cửu chương và các phép tính , vì ngu đệ làm biếng và sợ cực khổ và đau khổ vì vô minh lắm đó .....giúp ngu đệ nhé ......
Ngu đệ cám ơn Huynh trước nhé..
ánh sáng t2
ANHSANGT2 đã viết :

Khi Nguyên Thần đã biển hiện , khi Bản lai Diện mục đã lộ bày và khi thể xác nầy tan rả , thì tâm linh của mình làm sao để không bị tan mất vậy Huynh Lảmg Tử Tam Phong ; sao Huynh không bật mí luôn cho ngu đệ hoc̣ hỏi thêm ; ngu đệ tham sinh húy tử , sợ chết lắm ....vì ngu đệ còn muốn sống dai và minh mẩn đề̉ tìm hiểu và học hỏi thêm , trước khi ca bài trở về cát bụi và nếu có tái sinh thì ngu đệ làm biếng học lại mấy bảg cửu chương và các phép tính , vì ngu đệ làm biếng và sợ cực khổ và đau khổ vì vô minh lắm đó .....giúp ngu đệ nhé ......
Ngu đệ cám ơn Huynh trước nhé..
ánh sáng t2


Kính huynh ánh sángt2 : Thực sự thì tại hạ cũng chỉ là kẻ ham học hỏi thôi , những gì mình biết đều do mình cố tâm tìm hiểu từ các vị trưởng bối cũng như trong sách vở , chứ có tài cán gì đâu ! Như tại hạ đã nói ở trước , cái mất đi chỉ là xác thịt thôi còn cái nguyên thần thì chẳng bao giờ mất đi cả , trừ phi bị người nào đó đạo hạnh cao thâm đánh nát nguyên thần của mình thôi , chứ còn bình thường thì nguyên thần của ta vĩnh hằng bất biến đó bạn . Kiến thức mà bạn thu nhận được nó không hề mất đi , song khi chúng ta tái sinh ở kiếp khác lại bị những mối nghiệp duyên khác ràng buộc , vẫn không thể nhận thấy được bản lai diện mục của mình thì những kiến thức đó bạn không tìm thấy được , nó giống như cuốn sách có chữ nhưng do bụi che lấp mất bạn không đọc được vậy , khi nào bạn rũ sạch bụi thì tự nhiên chữ sẽ hiện ra . Bởi vậy quan trọng nhất là diệt được vô minh , làm hiển phát bản lai diện mục , bản chất tiên thiên của bản thân. Về phương pháp tu luyện , như tại hạ đã nói ở trước , tất cả các pháp môn trên thế gian cũng chỉ nhằm mục đích tìm lại bản lai diện mục tiên thiên của mình thôi , thành ra bạn tu luyện theo phương pháp nào cũng đi đến kết quả như vậy hết . Song tại hạ cũng mạo muội đưa ra cho huynh vài phương pháp để huynh nghiên cứu xem . Huynh nên vào www.thuvienhoasen.org tìm đọc các sách về phật pháp , cơ bản tìm hiểu các phép tu tâm , thiền định , kinh sách,... huynh cũng có thể vào mục luân xa tìm đọc cuốn " Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ " đựơc coi là của Lã Động Tân Lã Tổ viết , những điều tại hạ nói ở trên phần lớn là từ cuốn sách này đó . Còn nếu huynh là người huyền môn thì chỉ cần theo phép mà luyện thì phật tổ chư tiên và tổ sẽ dẫn đường cho huynh về bến giác .
Con đường đến với Đạo nói dài cũng không dài , nói ngắn cũng không ngắn , nhiều khi cả một đời lao tâm khổ tứ tìm kiếm lại không ra , bỗng một hôm nhìn ngắm ánh tà dương dần dần biến mất , hay nhìn ngắm cánh hoa đào bay trong gió lòng bỗng đại ngộ , mĩm cười viên mãn ! chúc huynh luôn tinh tấn trong tu luyện , sớm đạt được sở nguyện . Vài lời tận tâm cang , lời lẽ thô lậu nếu có gì sơ sót mong huynh lượng thứ
kính
lãng tử tam phong
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com
Kính Huynh Lảng Tử Tam Phong .,
Cám ơn tấm thạnh tình chỉ dạy chân thành của Huynh , ngu đệ sẻ cố gắng tìm hiểu và học hỏi theo con đường Huynh đã chỉ dẩn , để ngày một tinh tấn hơn .
Kính chúc Huynh vạn sự như ý và an lạc .
ánh sáng t2
Chào sư phụ, chào các huynh tỷ,
Chân thành cảm ơn sự quan tâm và góp ý kiến của sư huynh LANGTUTAMPHONG, góp lửa cho cuộc tranh luận.

Chào bạn ANHSANGT2,

Tôi hiểu được khát vọng của bạn muốn được hiểu biết bản chất thế giới tâm linh.
Khát vọng ấy cũng là của tôi, và của tất cả mọi người.

Nếu mọi chuyện muốn là được thì còn gì bàn luận nữa? Galileo Galile vì muốn nói trái đất quay quanh mặt trời mà phải lên dàn thiêu. Dimitri Mendeleev muốn hoàn thành bảng tuần hoàn hóa học nhưng không kịp trước khi chết phải để lại cho hậu sinh làm tiếp. Albert Einsten muốn giải thích tâm linh nên dành 30 năm cuối đời nghiên cứu mà vẫn chưa hoàn chỉnh.

Vì chúng ta đều là bầu bí, vì tôi “ thương bạn đến cùng “ nên mới có nhã ý viết ra ý kiến của mình, muốn nhắn nhủ với bạn một điều rằng: Muốn tìm hiểu tâm linh, trước hết phải có Tâm tốt và Pháp đúng. Tâm của bạn có thể tốt nhưng Pháp của bạn còn nhiều vấn đề nhầm lẫn như tôi đã phân tích. Những sai lầm trong Pháp của bạn tôi nhìn thấy rõ như sau:

1. Bạn cần hiểu thấu đáo một vấn đề, hiểu lăn hiểu lóc cho đến khi không còn gì để hiểu về nó thì thôi, trước khi sang cái mới. Phương pháp này được ứng dụng rất thực tế: khi tìm kiếm mãi không ra một vật để quên, hoặc vật bị rớt xuống đất, bạn nên tìm ở những chỗ chưa tìm. Nó đang nằm chình ình ở đấy.

Người ta nói:
Cái mới chưa chắc đã hay
Cái hay chưa hẳn là mới

Khoa học có tính chất kế thừa, phải đi từ dễ đến khó, từ cũ đến mới, từ chưa biết đến biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ thực nghiệm đến giả thuyết...

Khoa học tâm linh là khoa học vô hình, do đó bạn phải am hiểu tường tận các lĩnh vực có liên quan của khoa học hữu hình trước đã (khoa học tự nhiên và xã hội).

Trong bài lần trước, tôi đã cố gắng chứng minh luận điểm của bạn Chết Là Hết sai lầm ngay trong khoa học hữu hình rồi. Do đó không cần chứng minh tiếp trong khoa học vô hình.

2. Bạn có nhiều kiến thức về tâm linh, nhưng kiến thức của bạn không có hệ thống. Do đó bạn có cảm tưởng đã biết đầy đủ nhưng thực tế thì không phải như vậy. Bạn nói rằng diễn đàn TGBN có quá nhiều câu chuyện thực nghiệm một cách dư thừa.

Khoa học không bao giờ phức tạp, không bao giờ rối rắm. Khoa học chỉ phản ánh trung thực thế giới tự nhiên muôn lần chân thật mà thôi. Như vậy chỉ khi nào bạn sưu tập đầy đủ hiện tượng tự nhiên thì bạn mới đưa ra được giả thuyết khoa học. Do vậy tôi yêu thích trang diễn đàn TGBN và cúi đầu cảm phục sư phụ Hùng Sơn và các sư huynh, sư tỷ tiền bối, mặc dù thật tình tôi chưa có dịp được gặp các vị ấy ngoài đời.

Trước khi muốn bàn luận về vấn đề tâm linh, bạn cần đọc thật kỹ và tưởng tượng một chút những câu chuyện tâm linh có thật đã đăng trên TGBN:

http://www.vietnetcenter.com/diendan...opic.php?t=103

http://www.vietnetcenter.com/diendan...opic.php?t=804

3. Bạn AST2 biết quá nhiều giả thuyết giải thích về tâm linh, nhưng thực sự bạn không có giả thuyết nào của riêng mình. Điều này rất khó khăn cho bạn, vì bạn sẽ không tin tưởng một giả thuyết nào, đến một lúc nào đó bạn sẽ không tin tưởng vào chính mình nữa.

Những vấn đề tâm linh đã có từ xưa rồi, đâu phải là mới đúng không bạn. Đâu phải nhờ khoa học hiện đại chúng ta mới chế tạo ra tâm linh! Đâu phải các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo hay Hồi giáo chế tác ra tâm linh thần thánh. Xin khẳng định với bạn nếu nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm, và chắc chắn sẽ không bao giờ hiểu được tâm linh.

Ma quỷ, linh hồn, thần thánh, nhập hồn, ma ám, tiên tri, phong thủy, luân xa, tử vi v.v... đã có trên trái đất cùng lúc với sự xuất hiện con người cổ đại. Những hiện tượng tâm linh nói trên rất tự nhiên như không khí, nước, ánh sáng, sấm sét và có mặt trên trái đất từ ngàn xưa. Con người dù muốn hay không muốn biết thì tâm linh cũng đã có sẵn trên trái đất rồi.

Chúng ta biết các tôn giáo ra đời khoảng hơn 2500 năm nay thôi. Vậy thì muốn nghiên cứu tâm linh, chúng ta hãy ngược quá khứ cách đây 4000 năm để nghiên cứu. Đó là thời kỳ tâm linh không bị chi phối bởi bất kỳ tôn giáo nào. Thời kỳ các Vua Hùng chưa ai biết Phật giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo, nhưng người ta đã biết cúng bái thần linh, ma quỷ rồi. Vậy thì giải thích tâm linh bằng cách nào, bằng sách nào và bằng kinh pháp nào?

4. Đi tìm lời giải thích cho các hiện tượng tâm linh vào lúc này là điên rồ nhất trong các chuyện điên rồ. Tại sao như vậy? Như đã nói ở bài truớc, hiện nay chưa ai có đủ lý thuyết để giải thích hiện tượng tâm linh. Đây là nói trên phạm vi toàn cầu, kể cả chú Sam, chú Vodka, chú Galoir và chú Holigan đấy nhé. Vậy thì chúng ta là cái thá gì mà đòi giải thích.

Câu chuyện cười dân gian “ thày bói mù xem voi ” là dẫn chứng hay nhất cho luận điểm này. Và dưới đây cũng là một chuyện “ thày bói mù xem voi “ tương tự mà giới khoa học thường kể cho nhau nghe để thư giãn:

Chuyện kể rằng: có một nhà bác học làm thí nghiệm, ông đặt một con ếch lên bàn, sau đó đập tay xuống bàn rất mạnh, đồng thời hét to “ NHẢY ĐI ”, và con ếch nhảy chồm lên rất xa. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần đều cho kết quả như nhau.

Sau đó nhà bác học lặp lại thí nghiệm trên cũng với con ếch đó, nhưng ông bẻ gãy hai chân sau con ếch. Khi đó cho dù đập bàn mạnh và hét to cỡ nào, con ếch cứ ngồi im và nhìn chằm chằm vào mặt nhà bác học, không thèm nhảy nữa. Nhà bác học lấy cuốn sổ tay phát minh ra và ghi: Loài ếch nghe bằng hai chân sau.

Nếu AST2 cứ muốn biết bên trong TV có gì, và xách cây tu vít ra tháo tung chiếc TV ra thành từng món, nào IC, nào loa, nào bộ cao tần, nào bộ khuếch đại hình, bộ quét ngang quét dọc v.v..., chắc bạn hả hê lắm, nhưng có chắc chắn bạn lắp nó trở lại nguyên hình chiếc TV hay không, hay là sẽ bị gia đình mắng cho: Heo lành chữa thành heo què.

Có một luận điểm sau đây hơi lạm bàn một chút sang triết học, nhưng nói đúng khát vọng giải thích tâm linh của bạn AST2. Nói rằng con người chúng ta mang mâu thuẫn giữa thiên hướng cực tiểu vốn có và thiên hướng cực đại muốn có ở mỗi con người. Sinh ra là một “hạt bụi” trong vũ trụ, nhưng con người bao giờ cũng hướng tới sự chiếm lĩnh (ít ra về mặt nhận thức) toàn bộ thế giới chung quanh. Những câu hỏi luôn được đặt ra và muốn được trả lời vô cùng tận là những cầu hỏi về nguồn gốc và bản chất của con người, của vũ trụ, con người và vũ trụ có nguồn gốc từ đâu và đi tới đâu?

5. Chúng ta đã chờ đợi câu giải thích đó ngàn đời nay rồi thì tại sao không chờ tiếp được nhỉ. Chọn đúng thời điểm giờ G là việc hết sức quan trọng. Tại sao một ngày lại có cực điểm giờ Ngọ. Tại sao mỗi triều đại có thời kỳ cực thịnh. Khi chưa đạt cực điểm mà hấp tấp thì thôi ... xong hàng. Thời điểm thích hợp nhất là vào năm 2030 để nghe Lời Kết Luận cho cuộc tranh luận này. Không phải tôi nói vui cho qua chuyện đâu nhưng sẽ là như vậy đấy.

Bài học lịch sử phát triển của khoa học hữu hình đã diễn ra đúng như vậy cho khoa học vô hình. Tôi có thể dùng hình ảnh so sánh trang diễn đàn TGBN hôm nay với các lĩnh vực như Luân Xa, Thiền Định, Bùa Ngải, Chuyện Thần Linh, Chuyện Ma Quỷ v.v... giống như một tờ báo khoa học tự nhiên cách đây 500 năm vào năm 1507, với các lĩnh vực như Sinh Học, Vật Lý, Toán Học, Điện Học, Quang Học v.v... Thế rồi một ngày kia có độc giả BONGTOI_T7 nhất định đòi giải thích dòng điện là gì? Nhưng cũng câu hỏi đó, thế hệ cháu chắt của BTT7 đã được hoàn toàn toại nguyện bởi nhà khoa học Michael Faraday.

Vậy bạn AST2 có còn đủ kiên nhân để đi tới đó hay không?

Kính chào sư phụ, chào các huynh tỷ
Chào bạn ANHSANGT2
Chúc một tuần lễ vui tươi và như ý
Chào quý Thầy ....
Chào các Huynh Tỷ...
Chào các Bạn ...

Chào Bạn Love Tâm Linh ,

Xin được góp ý với bạn về những vấn đề bạn nêu lên :

- Galileo Galile , Dimitri Mendeleev , Albert Einsten tất cả vì sự thật và chân lý mà đem hy sinh mạng sống của mình để phục vụ cho khoa học và nhân loại , chúng ta nên hoan hô , kính phục , tôn vinh , học tập , phổ biến và phát triển thêm lên ....Chớ đừng nên phổ biến , cổ vỏ cho những khuynh hướng , những ý tưởng cùng những thái độ khiếp nhược , hèn nhát , dọa nạt hoặc hù nhát những con người có đầu óc tiến bộ , khai phóng và tự do dân chủ ; nếu tất cả con người đều mang tâm trạng nầy thì xả hội ngày nay sẽ không có những tiến bộ về khoa học và xả hội khá nhiều so với ngày xưa , và đời sống con người sẽ không có mức sinh hoạt tiện nghi như ngày nay ...
- Vấn đề Bầu Bí chung giàn , đó là ngụ ý tôi là muốn nhắn nhủ một cách lịch sự , khiêm nhượng cho bạn , là chúng ta nên vì lợi ích của Diển Đàn mà hòa nhả , khiêm ái để tham luận đóng góp tài liệu , kiến thức kinh nghiệm và ấn chứng của mình vào trong đề tài Sống Chết Sự Đại để vấn đề mổi ngày một sáng sủa và rỏ ràng thêm ; để những ai có nhiều quan tâm về vấn đề sống chết của tâm linh có thể rộng đường tham khảo ; chứ tôi không phải có hứng thú gì mà tranh luận với bạn về những vấn đề nằm ngoài trọng tâm tâm linh của sự sống chết hay tồn tại tâm linh của nó ; tôi không đặt trọng tâm nhiều về phần thể xác . Nếu bạn có nhiều kiến thức về vấn đề nầy , đề nghị bạn mở một đề tài khác thí dụ như : SỰ BẤT TỬ CỦA LINH HỒN QUA KHOA HỌC THỰC NGHIỆM CẤY GHÉP CƠ THỂ HIỆN ĐẠI , một chuyên đề chuyên bàn luận tham khảo về sự trường tồn bất tử của linh hồn qua sự cấy ghép , mổ xẻ các bộ phận của cơ thể , ghép đầu , ghép óc thuộc khoa học qui ước hiện đại , để chuyển di tâm linh vào một cơ thể khác bằng phương pháp khoa học thực nghiệm , mà điểm kết thúc cho bạn là năm 2030 đấy ; Chứ trọng tâm của đề tài tôi mở ra là đặt trọng tâm về tâm linh và tiến xa hơn nữa .....và tôi có đầy đủ tài liệu , kinh nghiệm và ấn chứng để làm điều nầy , những kiến thức , kinh nghiệm nầy đi xa hơn và thực tế hơn , với những gì đang phổ biến trong kinh điển hiển giáo và trong xả hội qui ước ngày nay , vấn đề là tùy theo thời và vị có đúng lúc hay không mà thôi .
Sự đóng góp kiến thức của Huynh Lảng Tử Tam Phong , đã nói lên trình độ tâm linh , sự thành thật , kinh nghiệm cùng đức độ của một hành giả tâm linh trên con đường tu tập và tìm chân lý ; mặc dù những vấn đề đó tôi đã từng biết đến rỏ ràng về hơn 10 năm trở về trước , nhưng tôi vẩn lịch sự mà không nói ra , vì tôi cảm phục và mến trọng lòng thành thật cùng đức hạnh của Huynh LTTP đã không ngần ngại nói đúng vào đề và thành thật chia sẽ kiến thức cùng kinh nghiệm của mình , nên tôi rất quý trọng và thành thật cán ơn sự đóng góp chân thành của Huynh LTTP ; Cũng như quý Huynh Hùng Sơn , Talkative , Hải Phòng , Thế Anh , Thanh_Pali , HP571 .....trong suốt quá trình đóng góp trong đề tài nầy cho đến nay , đã nói lên sự già dặn , kinh nghiệm tâm linh phong phú , trí huệ thông đạt , văn phong tao nhã , đạo đức , khiêm nhượng , siêu thoát ; quý Huynh nầy đã biết đã biết đến sự khiếm khuyết của ngôn ngữ , văn tự , không thể dùng ngôn ngữ văn tự mà nói hết được những ý nghĩa cùng kinh nghiệm của tâm linh , mà nhiều khi cần phải lấy THẦN mà hội thì mới có thể hiểu được phần nào những bí ẩn của nó và những Huynh nầy đã làm điều đó , quý Huynh đã biết nói đúng lúc và nói đúng lời , không thừa mà cũng không thiếu , không gây hấn hay tạo hiểu lầm hay có những lời lẽ thiển cận xúc phạm đến người khác ; như nhiều người khác đã từng múa gậy vườn hoang hay múa riều qua mắt thợ trong những diển đàn độc đoán khác ....Chúng ta nếu muốn tiến xa và muốn thâu hoặch thêm được nhiều lợi ích về tâm linh , để bổ sung cho hành trang của mình trên con đường tâm linh , thì nên suy ngẩm và phát huy những đức tính cao quý nầy .
Không biết , bạn có đọc hết và kỷ những gì tôi đưa lên trong những bài tham luận hay không ? và bạn có hiểu được những ý tưởng gì tôi gởi gởi gấm trong đó hay không ? Chứ tôi chỉ thấy , tôi thì nói đằng Đông , còn bạn thì trả lời đàng Tây ; tôi thì hoan hô mời gọi mọi người cùng đóng góp kiến thức và kinh nghiệm của mình , đưa ra để mọi người cùng tham khảo , cùng THAM LUẬN trong tinh thần khiêm nhượng , lịch sự , hòa nhả , u mặc và thâm thúy của Đông Phương ; Còn bạn thì sung sức , hăng say , nhiệt huyết TRANH LUẬN hơn thua , một mất một còn , mà không đưa thêm một ánh sáng nào cho đề tài thêm phong phú và lợi ích thiết thực cho mọi người , bạn chỉ có công làm cho không khí thêm sôi động , bỏ thêm lửa vào cho nóng để đốt phí hết biết bao nhiêu thì giờ quí báo , của tôi và mọi người vào đây để tìm cầu và học hỏi thêm .
Bạn tự hào là love_tam linh , mà cách trình bày và kiến thức của bạn không có một tí gì là tâm linh hết ; mảnh đất tâm linh của bạn quá cằn cỏi , cần phải đợi đến năm 2030 , sau những cơn mưa dầm dả liên tục , thì mảnh đất của bạn không biết có hoa tâm linh nở hay không ? có lẻ bạn cần phải tu muôn vạn kiếp , để hứng những hạt mưa tâm linh rỉ rả từng hạt để đóa hoa tâm linh của bạn nở hoa , nếu bạn muốn thì ráng chờ nhé bạn , bạn có biết rằng bạn cố tình đã đẩy xa và muốn che lấp đi những kiến thức tâm linh mà người khác muốn đưa ra cho xả hội và thế giới trong thời đại Bảo Bình tâm linh tiến bộ ngày nay biết đến và cùng tiến bộ hay không ? Thời đại hỏa thiêu những bậc vĩ nhân hay những nhà Huyền thuật chân chánh nay đã qua rồi bạn ạ ; và bạn cũng không cần khiếp sợ những cường quyền và độc tài nầy nữa bạn ạ ; vì lương tâm , đạo đức và pháp luật ngày nay sẽ bảo vệ sự an toàn cho tâm linh cùng thể xác cho bạn ; vận mạng và tương lai của bạn là do bạn quyết định , không ai quyết định cho bạn , vấn đề là bạn có đầy đủ Bi – Trí –Dủng để đi hay không ?
Bạn có biết là bạn đang viết và nói gì hay không ? Bạn không hiểu bạn nói gì và bạn quá mâu thuẩn đối với bạn , thì làm sao tôi nói cho bạn hiểu được .
Lúc mở đầu bạn đã nói :” Tôi hiểu được khát vọng của bạn muốn được hiểu biết bản chất thế giới tâm linh , khát vọng ấy cũng là của TÔI ( love tam linh ) , và của tất cả mọi người “ .
Rồi sau đó ở mở đầu đoạn 4 , bạn lại mâu thuẩn và tự chê trách bạn như sau : Đi tìm lời giải thích cho những hiện tượng tâm linh vào lúc nầy là điên rồ nhất trong các chuyện điên rồ . .........Vậy thì chúng ta là cái thá gì mà đòi giải thích .“
Vậy là tự bạn tự hỏi và tự bạn trả lời ; thì tự bạn cũng không biết bạn là cái thá gì , thì tôi cũng không cần biết bạn là cái gì nữa , vì đó là việc của bạn ; còn tôi có con đường đi của tôi , nếu cùng đường thì chúng ta cùng xây đắp cho con đường thêm vững chắc và an toàn , còn không thì , anh đi đường anh , tôi đường tôi ....hồn ai nấy giữ . Sống chết mặc bây , tiền Thầy bỏ túi .
Những câu chuyện tâm linh về ngoại cảm tìm mộ tại VN , không phải đơn giản như bạn nghỉ đâu ? Mà ở đàng sau còn cả một hệ thống tâm linh khoa học cao cấp thuộc quốc phòng về nhân thể học và chính trị học nữa . Bạn nghỉ rằng nhà nước và đảng VN tin vào những vào những hoa quả , nhang đèn , những cúng kiếng truyền thống tín ngưỡng dân gian là có thể giải quyết được mọi chuyện và có thể tạo được những hiện tượng siêu nhiên như bạn đã thấy hay sao ? Nếu bạn tin như thế , thì quả là bạn không thận trọng rồi đấy ; vì đàng sau của những truyền thống tín ngưỡng ấy còn cả một khoa học đồ sộ đằng sau đấy , bạn học và tìm hiểu từ từ rồi sẻ thấy , dù tôi có nói bạn cũng không tin , nước ấm lạnh tự bạn uống và chiêm nghiệm sau , thì bạn sẻ thấy .
Vì tôi không muốn phung phí thì giờ quí báo của tôi vào những cuộc tranh luận vu vơ , để trả lời từng ý kiến của bạn như lần trước ; bởi vì lúc đầu tôi đã quí trọng bạn như những Huynh khác ; nay tôi đã hiểu được bạn là người như thế nào , nên nay tôi cần dành ít thì giờ để viết những bài tham khảo có giá trị hơn cho đề tài , hơn là tranh luận với bạn mà vấn đề không đi tới đâu .
Nếu bạn vẩn còn hăng hái , vẩn còn sục sôi nhiệt huyết và còn nhiều điều muốn nói , thì tôi xin được là người đầu tiên được hân hạnh đón đọc và mong được học hỏi , sự chỉ dạy của bạn ở đề tài mới , mà tôi đã đề nghị bạn mở ra :
Đề tài :
SỰ BẤT TỬ CỦA LINH HỒN QUA KHOA HỌC THỰC NGHIỆM CẤY
GHÉP CƠ THỂ HIỆN ĐẠI của Huynh Love Tâm Linh .

Song song với đề tài : SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI của tôi , chuyên giải thích sự bất tử của linh hồn qua Mật Tông – Đạo Gia và Huyền bí học Đông tây .

Như vậy , thì thì giờ và chuyên môn của chúng ta sẻ được xử dụng đúng chổ và lợi ích cho mọi người hơn .
Trong khoảng 5 năm nay , tôi đã từng viết nhiều bài tham luận về tâm linh trong các trang web Tử vi Lý Số , Chân Thuyên , Việt Lý Số , Huyền Bí học , Văn Hóa Phương Đông .....dưới nick viet hoa ANH SANG hoặc ANH SANG T2 UC CHAU để không trùng tên với Huynh có nick anh sang viet thường , nếu bạn thích có thể vào đấy tham khảo , đấy là những bài tham luận , chứ không phải tranh luận nhé !
Còn nếu bạn , có những gì hay về tâm linh liên quan đến đề tài của tôi , thì tôi hoan nghinh sự đóng góp của bạn , còn việc tranh luận vu vơ , việc đó tôi cũng đã từng làm khi còn trẻ rồi ; nay tôi không có hứng thú tham gia và trả lời cho bạn nữa , bạn muốn viết gì thì bạn cứ viết ; vì vấn đề nầy thuộc trách nhiệm của ban quản trị trông coi ; còn tôi thì dành thì giờ viết những bài có giá trị cho diển đàn trong tương lai ; chắc bạn hiểu những gì tôi nói ?

Chúc bạn an lạc , vui vẻ và tinh tấn hơn .

ánh sáng t2
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:54 am

ánh sáng t2
ANHSANGT2 đã viết :

Kính Huynh Lảng Tử Tam Phong .,
Cám ơn tấm thạnh tình chỉ dạy chân thành của Huynh , ngu đệ sẻ cố gắng tìm hiểu và học hỏi theo con đường Huynh đã chỉ dẩn , để ngày một tinh tấn hơn .
Kính chúc Huynh vạn sự như ý và an lạc .
ánh sáng t2


hì hì! huynh lại quá coi trọng tại hạ rồi ! kính chúc huynh đạt được sở nguyện , kiến thức của huynh quả là uyên bác , thật đáng trân trọng

kính
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
chủ đề rất hay rất bổ ích mà sao không thấy huynh ANHSANGT2 cùng mọi người bàn luận tiếp ...??
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Chào Lảng Tử Tam Phong ...
Thật ra , từ lúc đầu của bài viết , tôi có nói rằng vì đề tài nầy rất mẩn cảm đối với tất cả những hệ thống tư tưởng và tập quán của xả hội , nên tùy theo bối cảnh xả hội cùng trình độ tâm thức của mổi người khác nhau , nên tôi có nói trước , là tôi sẻ không tranh luận hay bàn cải gì đối với các vấn đề đúng sai , thắng thua , chánh tà hay dùng những lời lẻ nào không hay , để gây hấn hay làm phiền đến sự đóng góp của những hội viên khác . Từ đầu các bài của đề tài này đến nay , các hội viên khác đã đóng góp ý kiến cùng bài vở cho vấn đề sanh tử luân hồi đã đưa đề tài đi những bước khá xa , mà hiện nay hiếm có những nơi nào trên internet có nói đến các vấn đề nầy một cách rỏ ràng cùng những kiến thức và những tư tưởng tâm linh mới lạ ; mà tất cả mọi nơi chỉ nói đến các kiến thức phổ thông mà mọi người có thể dể dàng tìm thấy trong các website tôn giáo , các nhà sách cùng những sách có xuất bản trên thị trường , còn những kiến thức cùng kinh nghiệm nội môn về vấn đề nầy thì ít được phổ biến , nên sự phát triển tâm thức của các hành giả Việt Nam đang đi trên đường nầy , khó có dịp mà tiếp xúc cùng học hỏi thêm xa ; Trong khi các hành giả của các quốc gia bạn như Trung Hoa , Đài Loan , Tây tạng , Tân Gia Ba , Nhật bản,và một số ít các quốc gia Anh Mỹ và Âu Châu ....đã có rất nhiều tài liệu cùng nhiều ấn chứng cho việc nầy trên phương diện tâm linh cùng tu tập .
Vì khoa học ngày nay chưa có khả năng để đi sâu vào lảnh vực nầy , nên chỉ có khoa học tâm linh cùng huyền bí học mới có thể cho hành giả một pháp môn tu tập hoàn hảo và rỏ ràng ; và đã có nhiều hành giả của các quốc gia trên từng ấn chứng cùng ghi lại những ấn chứng nầy để giúp đở người đi sau có thể theo đó mà tu tập .
Vì sống chết là vấn đề trọng đại của mọi người , nên mọi tranh cải đều làm ngưng trệ những đóng góp để đưa đề tài thêm phong phú và sáng sủ a hơn . Nên , tôi hy vọng và yêu cầu mọi người cùng các hội viên chỉ viết lên và đóng góp những bài tham luận để nó lên những ấn chứng cùng những suy tư của riêng mình hay đưa lên những tài liệu hay hiếm có về các đề tài trên mà thôi .
Mọi sự đúng sai , chánh tà , hay dở , là để dành cho các đọc giả trên thế giới đang theo dỏi đề tài phán xét riêng theo ý của mình , và tùy thuộc vào trình độ cùng sự thức giác của các đọc giả nầy sẻ giám định các bài viết , đồng thời sẻ thâu thập được những điều hay dở đúng sai , thêm vào , làm phong phụ́ thêm hành trang tâm linh của mình .
Nên sự đóng góp thêm những bài tham luận theo cá nhân mình , mà không chỉ trích hay đả phá những người khác , dù họ có viết đúng hay sai , thì khi mọi người có đọc xong , ai củng sẻ thấy được điều nầy , như vậy mọi người đều cởi mở và có hứng thú đóng góp thêm .
Thật ra , Tôi không có thì giờ nhiều , vì bận đi cày để nuôi gia đình , cùng tu tập pháp môn của mình , thì giờ hiếm hoi còn lại , tôi còn phải dịch quyển thứ 2 TẬP XUẤT HỒN RA KHỎI THỂ XÁC TRONG 30 NGÀY cho Việt Lý Số .com cùng tham gia thêm trong các website ngoại quốc Trung hoa và Anh Mỹ , vì các website nầy các hội viên rất cởi mở , thân mật và có trình độ tâm linh cùng ấn chứng cùng tài liệu rất cao và hay , đồng thời đã đáp ứng được một phần nhu cầu tâm linh của tôi trong lúc nầy .
Tôi đang có dành một ít thì giờ đang viết một bài tham luận cho đề tài nầy , để đào sâu thêm cho pháp môn thực hành Phowa và những kiến thức của Đạo Gia về Hoán Thân Đại Pháp và Tá Thi Hoàn Hồn . Mời các bạn đón xem trong thời gian ngắn sắp tới .

C húc Lảng Tử Tam Phong cùng các bạn thân tâm an lạc và tu hành tinh tấn .
ANHSANGT2 đã viết :

Bí mật của hiện tượng siêu trí nhớ
Năm 20 tuổi, cô gái Elina Markand (người Đức) bị tai nạn. Khi tỉnh dậy, Elina bỗng nói tiếng Italy rất thông thạo, mặc dù trước đó cô chưa từng học một ngoại ngữ nào. Cô còn tự nhận mình là Rozetta Caste Liani, công dân Italy, và yêu cầu được trở về thăm quê hương.
Về tới "nhà", Elina mới biết rằng người có tên Rozetta Caste đã mất từ năm 1917. Đón cô là một bà già lụ khụ, xưng là con gái của Rozetta Caste. Elina chỉ tay vào bà già, nói: “Đây là Fransa, con gái tôi!”. Lúc ấy, tất cả mọi người đều giật mình, vì người đàn bà này quả thực tên là Fransa, đúng như Elina gọi.
Câu chuyện của Elina Markand đã trở thành đề tài đầy hấp dẫn cho giới khoa học. Thực tế, trong lịch sử từng có không ít trường hợp tương tự, và hiện tượng “nhớ về quá khứ” không nhất thiết phải bắt đầu từ một chấn thương nào đó, như trường hợp của Elina Markand.
Vào thập niên trước, một cô gái nhỏ người Anh đã biến thành "một người xa lạ" sau khi tỉnh dậy một buổi sáng. Em không nhận ra mẹ và người thân của mình, không nói được tiếng mẹ đẻ trong khi lại thông thạo tiếng Tây Ban Nha, và lúc nào cũng tỏ ra sợ sệt.
Các bác sĩ đều có kết luận giống nhau: Em bé 10 tuổi này không có biểu hiện gì về bệnh lý hoặc tâm thần, sức khoẻ tốt. Em nhận mình là người Tây Ban Nha và sống ở thành phố Toledo. Em kể lại rằng một người cùng phố do ghen ghét và đố kỵ đã đâm chết em năm em 22 tuổi. Cảnh sát Tây Ban Nha đã thẩm tra lại câu chuyện kỳ quặc về “tiền kiếp” của em, và kết luận, đúng như lời em kể. Ở số nhà đó trong thành phố Toledo từng có một cô gái 22 tuổi bị hãm hại. Những người hàng xóm đã tìm thấy xác cô ngay trong nhà. Câu chuyện càng sáng tỏ hơn khi hung thủ (lúc này đã già) tự đến gặp cảnh sát để thú tội.
Các nhà khoa học còn tiếp tục ghi nhận nhiều trường hợp khác. Chẳng hạn có người đột nhiên "biến" thành công dân La Mã cổ đại, và bằng chứng khó chối cãi là anh ta biết sử dụng được thứ ngôn ngữ “nguyên thủy” của mình, không còn ai hiểu nữa. Tương tự như vậy, có người châu Âu bỗng nói tiếng Ai Cập, mất hẳn khả năng dùng tiếng mẹ đẻ. Rồi anh ta mô tả chính xác cảnh vật ở vùng sông Nile, và tự nhận có nguồn gốc Ai Cập.
Thử nghiệm
Valeri Guzel, Trưởng khoa Tâm lý thuộc Đại học Nhân văn (Nga) bật máy tính, mở một tập dữ liệu. Trên màn hình hiện lên một người với những vầng hào quang xung quanh và những tia sáng đứt đoạn phát ra. “Đấy là aura, tức trường sinh học của một người được thí nghiệm", ông nói, và giải thích thêm: "Hãy xem, đây là vùng đảm trách công việc của hệ tim mạch, vùng này, cho ruột non, vùng này cho xương cụt… Ở khu vực dạ dày, aura yếu, có lẽ anh ta ăn phải cái gì đó không ổn… Diện tích chung: 36.000 đơn vị. Tính đối xứng 98%, đó là các chỉ số tốt. Còn bây giờ, hãy xem sau khi anh ta tiếp xúc với một người khác, aura giảm bớt: diện tích tụt xuống còn 31.000 đơn vị, tính đối xứng: 76%. Nghĩa là việc tiếp xúc không thành công”.


Kính Huynh ANHSANGT2! Thú thật rằng trong thời gian trước đây, khi lên DĐ tôi chỉ lo post bài của mình và lo vấn đề giải đáp cá nhân mà không chịu khó nghiên cứu tìm đọc tất cả. Lần này trở vào, có thời gian nghiền ngẫm suy nghĩ nhiều hơn, đọc kỹ hơn và tôi nhận ra những nội dung trong bài viết của huynh đã hội tụ được cả 2 yếu tố : Khoa học và Tâm linh. Một vấn đề thuộc lĩnh vực siêu hình lại được soi rọi dười ánh sáng của khoa học. Cho dù chỉ mới soi rọi một phần rất nhỏ cuả vũ trụ huyền bí nhưng đủ đem lại niềm tin cho nhiều người trước nay vốn chỉ dựa vào khoa học... Trong những điều huynh trình bày, tôi xin trích dẫn hai nội dung vì nó liên quan đến kinh nghiệm tâm linh mà tôi đã trải qua.
1. Hiện tượng siêu trí nhớ: cũng có thể gọi là nhớ lại tiền kiếp. Theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, vong hồn muốn đầu thai chuyển thế thường phải qua cầu Mạnh Bà uống Mạnh thang (còn gọi là cháo lú) để quên đi tiền kiếp. Có những trường hợp linh tính cao, chỉ ngậm mà không uống thì sau này thác sanh trở lại thế gian vẫn nhớ lại chuyện trong tiền kiếp. Vấn đề này có ghi nhận lại bằng một câu chuyện có thật trong tài liệu nghiên cứu sưu tầm của học giả Toan Ánh. Tuy nhiên, có những trường hợp nhờ vào khả năng của đạo sư mà con người vẫn có thể nhớ lại quá khứ của mình. Nhớ lại thời kỳ tôi còn học đạo thuật và chữa bệnh, tôi có quen biết một phụ nữ tu theo pháp Tiên gia của bà Tôn Bất Nhị. Bà ta có khả năng giúp người phục hồi ký ức trong tiền kiếp. Bằng một ly nước lọc, bà cho đối tượng nhìn vào tập trung trong khoảng 15phút. Sau giây phút ban đầu phản ứng bình thường, người cầm ly lặng đi như bị thôi miên.Lúc đó, đối tượng có thể nói được những thứ tiếng mà bản thân người đó chưa hề được học. Sau khi tỉnh lại, đối tượng kể lại quá khứ của mình một cách khúc chiết trong một cảm giác bàng hoàng. Có thể đây là một hình thức thôi miên bậc cao. Còn trong đạo, chúng tôi gọi là phản bổn huờn nguyên.
2- Trước đây tôi và sư huynh có tập luyện Thập Tam Chân Kinh của Bạch Thạch đại sư. Phương pháp này kích thích các luân xa hoạt động dữ dội. Căn bản đầu tiên mà hành giả sở đắc được là nhìn thấy được vòng ánh sáng bao quanh cơ thể con người. Tuỳ theo màu sắc, vòng sáng mà hành giả có thể đoán biết bệnh trạng và có cách chữa trị hoặc góp ý cho ngươì bệnh. Như vậy, bằng vào những phát minh và thử nghiệm khoa học, con người vẫn có thể thực hiện được ước mơ khám phá thế giới vô hình. Tuy nhiên, theo tôi, trải nghiệm tâm linh qua quá trình tu tập rèn luyện của bản thân mỗi người vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất.
Vài hàng thô thiển mong tạo cảm hứng cho huynh viết tiếp chủ đề này. Thật ra, điều mà tôi biết chỉ là kinh nghiệm hạn hẹp không có chứng cứ thuyết phục chẳng khác gì những ý tưởng rời rạc đặt bên cạnh hệ thống lập luận vững vàng. Hy vọng được chỉ bảo thêm.
Kính
hoan hô bác Anh Sang , bis..bis...
Chào Quí Huynh Tamandieungo , Langtutamphong , Lokeshvara ..cùng Quý Thầy và các bạn xa gần ....

Diển đàn cần những bài viết tham khảo có ý nghĩa như Huynh đấy , mọi người đọc đều thoải mái và hấp thu trong tình thân mật và đầm ấm tình đời , tình đạo song tu . Hy vọng , sẻ có sự đóng góp của Quý Thầy về các vấn đề nầy thì rất là bổ ích vô cùng , vì có cho thì có nhận .....và tùy duyên ......
AS vì bận đang viết bài đào sâu thêm về pháp môn Chuyển Di Thần Thức cho chủ đề nầy , nên không có dịp chào Huynh cùng các bạn khác , mong quý Huynh rộng lòng vui vẻ bỏ qua và cổ động thêm nhiều người viết thêm bài trong khi AS chưa vào kịp , như vậy chủ đề sẻ không bị lạnh hỏa hầu , mà Kim Đan nhờ thế luôn được trao luyện tỏa sáng thêm ....
Tạm thời , mời Quý Huynh rảo mắt Thần qua các vòng văn chương thô thiển nầy nhé , mong sẻ mua vui được vài trống canh thoải mái và vui vẻ .
AS xin tạm cáo lui để tiếp tục viết bài , khi nào xong AS sẻ post lên hầu cùng quý Huynh nhé :



VIÊN QUANG BÍ THUẬT

Viên Quang Bí Thuật thuộc pháp môn bùa chú , bí thuật nầy rất ít người thấy biết hay nghe nói đến , nếu có người biết đến , thì có người cho là mê tín dị đoan , có người lại cho là một loại khoa học ứng dụng . Thật ra bí thuật nầy là một pháp môn huyền thuật cao cấp , nó có pháp môn tu luyện thật sự và nó được xử dụng cùng ứng dụng linh nghiệm của các vị Thầy , đồng thời nó cũng có một bí pháp giả tạo dùng để lừa gạt , tạo ảo giác của các giới Giang hồ Thuật Sỉ .
Hành giả khi xử dụng thuật Viên Quang , thường thu hồn phách của người xem , về nơi mắt mình để phân biệt , nó có thể dùng để thẩm án trộm cướp hay dùng để đoán bệnh tật , nó cũng có thể dùng ly , thau nước , mặt kiếng hay giấy cắt tròn , xuyên qua đó để triệu thỉnh hồn phách của người chết về để đối chất .
Ngày nay , tại một số quốc gia đã xử dụng thuật nầy trong quốc phòng và trong hệ thống công an để truy tầm kẻ phạm pháp hay lấy thông tin gián điệp .
Tương truyền , Viên Quang bí pháp có một tác dụng thần kỳ , không thể nghĩ bàn , mà ngày nay chúng ta khó thấy ; như khi xử dụng Ngũ Lôi Viên Quang Pháp thì sẻ khiến thủ phạm sẻ tự thú nhận tội trạng của mình một cách tự nhiên .
Những vật bị thất lạc hay những vật mất không có chủ nhận ; Vị Thầy thường xử dụng thuật viên quang để tìm ra người chủ hay những vật đã mất ; thường thì dùng một thau nước , hay một cái kiếng hay cắt một miếng giấy tròn dán lên tường ; Xong vị Thầy liền đốt bùa niệm chú , và cho đồng tử nhìn vào một trong các vật kể trên , thì bổng nhiên đồng tử sẻ thấy được , có cảnh vật hiện ra trong mặt nước , trong kiếng hay trên giấy tròn đả dán vào tường ; đồng tử liền nói lên các điều trông thấy cho mọi người chung quanh nghe , như đường đi như thế nào , nhà đó ra sao và ai thường ra vào trong nhà nầy , thông qua đó người nào có mất đồ có thể biết đến nơi đó mà tìm , vật không có chủ nhận sẻ biết chủ là ai sẻ được thông báo để đến nhận . Khi xong việc , Vị Thầy lại đốt bùa niệm chú , thâu hồi lại cảnh vật trong nước , gương hay giấy trên tường , và các cảnh vật liền biến mất trong đó ; các thân chủ bị mất đồ vật thường tìm lại được đồ vật đã mất , rất linh nghiệm ; Đây cũng là một thuật thôi miên tạo ảo giác hiệu nghiệm thực dụng cao cấp ; thông qua thau nước , gương hay thủy tinh cầu , nhờ tâm thành và ý thức người đồng tử đã được thâu nhiếp vào các vật nầy , mà nguyên thần hiển lộ , để thâu nhận thông tin trong tiên thiên ký ảnh , nhờ sự thông công của vị Thầy qua sự đốt bùa và niệm chú .
Còn những thuật Viên Quang giả tạo của giới giang hồ thuật sỉ thường dùng dược vật để thoa vào mắt hay vào giấy đề̉ hiển lộ ảo tưởng cảnh vật v..v... thường không được thực dụng , nó chỉ có tác dụng lường gạt tiền tài và tuyên truyền mê tín dị đoan .
Viên Quan Bí Thuật khi đạt đến trình độ cao thì vị Thầy có thể biến hóa vô lường , bất khả tư nghị .


THẬP TAM CHÂN KINH

Là một pháp tập luyện với 13 thức ; Nam tập 7 lần , Nữ tập 9 lần , có giá trị tốt cho sự tiến hóa nhanh chóng , tương đương tương đương tụng một quyển chân kinh .
Tụng kinh thường rất tốt cho người có căn tốt ; vì sự tụng niệm tiếng chuông mỏ , làm cho tăng sức rung động tế bào cho cơ thể , và làm cho hỏa xà thức dậy chạy lên nảo chiếu sáng các luân xa , khiến cho con người tiến hóa từ phàm phu lên đến siêu phàm .
Nếu tụng đúng và hiểu ý kinh , có căn cốt tu , thì các kinh mạch nội lực ttrong cơ thể sẻ vận hành điều đặn hòa nhịp với ý nghĩa kinh . ngược lại nếu tụ g không hiểu nghĩa , hoặc hiểu sai , thì kni thực hành sẻ sai và tác dụng không phù hợp với cơ thể kinh mạch hay căn cơ chưa đến thì hỏa xà không thức dậy , hoặc hỏa xà tự động đi lên không có kiểm soát sẻ lên nảo đốt cháy nảo bộ và bị tẩu hỏa nhập ma , khi hỏa xà đốt cháy nảo , thì cơ thể rất nóng , nhức đầu và dần dần trở nên điên dại .
Nếu ngồi Thiền tụng kinh , có hiện tượng trên , thì phải bỏ ngay lập tức , chờ khi nào gặp Minh Sư hoặc có duyên tập được Thập Tam Chân kinh thì có thể giúp ích nhiều cho việc tu tập .
Chân kinh nầy và các phép khác như Thiên Long Bát Bộ ( tập nội lực ) và Thông Thiên Hoán Địa ( tọa Thiền ) , đều thích hợp cho mọi người dù theo tôn giáo nào tập cũng được .
Nên tập 13 chân kinh với ý thức dẻo dai , uyển chuyển nhẹ nhàng ; nên uống nhiều nước lạnh trong khi tập để xuất trược theo mồ hôi và làm mát mẻ dịu bớt sức nóng của hỏa xà , vì sức nóng nầy có thể gây tẩu hỏa nhập ma ; đôi khi hỏa xà tự nhiên trổi dậy , nhất là vào buổi tối , mắt đỏ bừng bừng , cần phải ngưng tập ít ngày , ăn thêm nhiều rau trái để tưới mát cơ thể
13 chân kinh chú trọng vào sự tẩy trược , điều hòa kinh mạch , đã thông huyệt đạo , giúp nội lực tăng nhanh . Khi nội lực mạnh và kinh mạch thông suốt , thì khí lực sẻ đi từ luân xa 1 đến luân xa 7 ở đỉnh đầu nê hoàn và sau đó chạy thông các kinh mạch chiếu sáng khắp cơ thể .
Khi luân xa 7 được khai mở thì hỏa xà có thể đi thăng lên thượng thiên hòa hợp với linh quang . Các luân xa là các đại huyệt trọng yếu nhất trong cơ thể , cũng như các ngọn đèn khi được hỏa xà và linh quang chiếu sáng , thì các khả năng siêu phàm tiềm ẩn của cong người sẻ được khai mở .
Tất cả mọi việc đều có thể giải thích theo khoa học hay khoa tâm linh học ; còn khi nào quá cao đến mức huyền diệu mhiệm mầu , thì không có ngôn ngữ nào ở trần thế có thể diển tả được mà chỉ riêng hành giả tự hiểu biết mà thôi .
Chân lý chỉ có thể do chính mình tìm ra , chính mình hiểu và cái hiểu biết đó là của chính mình .

Ngoài Thập Tam Chân Kinh ra , ở VN các hành giả còn tập các pháp môn khác như Thất Thập Nhị Huyền Công , còn gọi là Huỳnh Đình Thiên Địa Động hay Bí Pháp Luyện Đạo của Tứ Nương v..v....

Hiện tượng ăn cháo lú , hay qua cầu Mạnh Bà đều là những hiện tượng bên ngoài , nó thường được ghi chép tràn ngập trong các sách tôn giáo hay phong tục tập quán dân gian . Tuy nhiên nhờ sự góp mặt của các khoa học cao cấp như Lượng Tử Học , Thuyết Siêu Sợi và Lý thuyết Tập Mờ và Nhân thể học .....Cộng thêm sự hợp tác giữa các vị lảnh tụ Tôn Giáo , các nhà Yoga , Huyền Bí Gia và Huyền Thuật Đông Tây cộng tác cùng các khoa học trên đã giúp cho sự minh bạch hóa , giải mả và phổ thông hóa các nan đề của các thế kỷ qua .
Đối với chúng ta tại diển đàn nầy , sự trình bày ấn chứng cùng kinh nghiệm của mình lên trong diển đàn nầy sẻ là cơ hội cho mọi người có thêm nguồn sáng , có thêm tham khảo , từ đó sẻ giúp khai mở những nan giải trên con đường tu tập tâm linh của người khác và ngược lại , giúp người và giúp ta với sự chiếu rọi của trí huệ , chứ không mù quáng giúp người mà hại ta , hay hại người mà lợi ta với sự gian xảo của vô minh thì chỉ làm chậm đi bước tiến tâm linh của mình và làm chậm đi và làm mất cơ hội học hỏi của những ta và của người khác nữa .

Hiện nay tại VN đả có các quyển bách khoa tham khảo về Huyền Bí học rất hay , mặc dù không phải do những nhà có trình độ huyền học phiên dịch , nhưng nó được dịch do những vị có tâm sưu khảo và tìm hiểu về tâm linh , để giới thiệu môn nầy đến độc giả VN ; vì thế các từ ngữ dùng để diển tả không được chuyên môn cho lắm , nhưng nó cũng giúp ích rất nhiều cho những người sơ cơ và cho những nhà huyền bí học VN , mà yếu về ngoại ngữ và thiếu tài liệu tham khảo bằng ngoại ngữ . Còn các sách dịch từ Hoa Ngữ ra Việt ngữ , thì trình độ người dịch ở VN khá cao và có kinh nghiệm khoa học tâm linh Đông Phương , nên các sách rất có giá trị . Nên , các bạn cần có các quyển từ điển sau đây trong tủ sách huyền bí học của các bạn , nó là người bạn tốt giúp bạn trên con đường tâm linh đầy hứng thú nầy ....

TỪ ĐIỂN TÔN GIÁO VÀ CÁC THỂ NGHIỆM SIÊU VIỆT
( ENCYCLOPEDIA OF MYSTICAL AND PARANORMAL EXPERIENCE . )
Thực ra đây là bách khoa tự điển tâm linh có giá trị
của giới huyền học và ngoại cảm Tây Phương .
Của Rosemary Ellen Guiley
Người dịch Nguyễn Kiên Cường và nhóm cộng sự

HÀNH TRÌNH CÙNG TRIẾT HỌC
Của Ted Honderich
Người dịch Lưu Văn Hy

TỰ ĐIỂN MINH TRIẾT ĐÔNG PHƯƠNG
Người dịch Lê Diên

TỪ ĐIỂN VĂN HÓA CỔ TRUYỀN TRUNG HOA
Người dịch : Lê Khánh Tường
Hiệu Đính : TrầnCương Thiết – Nguyễn Bích hằng .

TỪ ĐIỂN VĂN HÓA CỔ TRUYỀN VIỆT NAM .


TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ ĐẠO GIÁO
Người phiên dịch Tấn Tài – Phước Đức

TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY
CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI
Tác giả : Nguyễn Hoàng Phương .

Mọi chi tiết , các bạn có thể tìm sách nầy tại các nhà sách lớn , hoặc tại các nhà sách ở đường Nguyễn Thi Minh Khai hay các nhà sách trên mạng cho các bạn ở xa thành phố hay ở ngoại quốc như các mạng :
http://www.saharahvn.com http://www.vinabook.com http://www.songhuong.com.vn

Trên đây là một số ít sách Khoa Học Huyền Bí và Huyền Thuật có giá trị hiện có trên thị trường VN , nếu đem so sánh với thị trường sách tâm linh thực dụng và sách bài trừ mê tín dị đoan hay lật tẩy kỷ thuật lừa gạt tín ngưởng và tâm linh được phổ biến ở nước ngoài như Âu Mỹ , Âu Châu và Trung Quốc – Đài Loan – và các cửa hàng sách của Hoa Kiều Đông Nam Á ngoài VN ra , thì vẩn còn như sa mạc đang chờ nhiều cơn mưa lớn mới có thể nổi nước được . Nhưng may thay , nhờ mạng lưới internet mở rộng nên cũng giúp giới Huyền học và giới thực hành tâm linh tiến bộ tại VN vươn được Thần lực của mình ra góp mặt với thế giới huyền học khắp năm châu bốn bể ....

Lành Thay ...Lành Thay .......
về phép Viên Quang Bí Thuật thì tại hạ quả lần đầu nghe nói đến quả thật là tuyệt vời , nghe những gì huynh miêu tả thì tại hạ nghĩ nó có thể cùng một dạng với Miên Công của Trung Hoa , bằng cách cách phát công từ huyệt " Ân Đường " có thể khiến cho đối phương bị khống chế giống như bị thôi miên vậy...

còn việc trì tụng kinh trong mật tông theo tại hạ biết thì như sau , sau khi hội tổ nhập xác thì mình trì tụng kinh chú dùng điển lực của mình truyền vào tam giới để mọi nơi đều có thể nghe lời kinh chú giúp họ thông hiểu được đạo pháp , từ đó mình sẽ được công đức vô lượng và các vị thần , tiên cùng ma quỷ theo trợ giúp ...Còn theo ngôn ngữ hiện đại thì việc đọc kinh chú giống như một loại tâm pháp giúp con người thân thể được thanh thản giống như ta nghe một giai điệu êm tai hay một khúc tình ca lãng mạn khiến ta cảm thấy nhẹ nhàng , lâng lâng...từ lâu người ta đã biết đến sự liên quan giữa âm thanh và tạng phủ, bởi vậy trong các việc chẩn đoán bệnh xưa kia đã sử dụng "Văn " tức là nghe giọng nói của người bệnh để chẩn đoán bệnh , do đó lúc ta đọc kinh văn với âm thanh trầm bổng khác nhau tất nhiên sẽ ảnh hưởng tốt đến lục phủ ngũ tạng , giúp cho lục phủ ngũ tạng được điều hòa bởi toàn bộ cơ thể đều tập trung cao độ cho việc tụng niệm ...
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Đọc những dòng tin trả lời, tôi thật sự bất ngờ trước kiến thức uyên bác của huynh. Viên Quang bí thuật là một pháp môn tối cổ, tương truyền là do Thái Thượng Đạo Tổ hoá thân truyền lại cho đệ tử. Công năng cụ thể huynh ANHSANGT2 đã nêu khá chi tiết. Tuy nhiên, theo tôi biết, việc giúp cho đối tượng nhìn thấy tiền kiếp không nằm trong phép Viên Quang Bí thuật. Vị đạo hữu mà tôi kể không dùng phù chú, chỉ dùng định lực chuyển dời thần thức của người soi căn vượt qua những rào cản tâm thức trong hiện tại để lùi về quá khứ. Khả năng thôi miên giúp con người nhớ lại những chuyện đã xảy ra trong hiện kiếp, phương pháp Phản bổn huờn nguyên lại đưa thần thức con người về tiền kiếp... Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận là không phải ai cũng "lội ngược dòng" được. Những người căn tánh u mê hoặc tánh linh bị che mờ rất khó nhìn thấy quá khứ...
Còn điều bất ngờ thứ hai lớn hơn là huynh lại biết quá rành rẽ về Thập Tam Chân kinh, huynh còn nói cả Thông Thiên Hoán Địa và Thiên Long Bát Bộ cùng những công năng, hiện tượng xảy ra khi tập. Khi tôi điện thoại cho sư huynh kể lại việc này, ông ấy hơi bất ngờ. Vì pháp môn này ít phổ biến, không phải ai cũng biết. Xin hỏi huynh sưu tập ở đâu hay huynh đã qua tập luyện? Khả năng của các pháp này có thể giúp hành giả xuất chơn thần sang cảnh giới khác học hỏi. Hiện nay, sư huynh tôi đã đạt được cảnh giới ấy...
hix ! tại hạ quả là đã múa rìu qua mắt thợ rùi ! kiến văn thiển mọn không biết cao nhân...
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Chào Huynh Tâm Ấn Diệu ngộ và Huynh Lảng Tử Tam Phong .....

Biển học mông mênh , có thể những điều Quý Huynh biết thì AS không biết và ngược lại ; nên chúng ta mới hội ngộ nơi đây để cùng nhau chia sẻ , để cùng tiến bộ trong tinh thần phục vụ nhân sinh ; có những thông tin hay pháp môn ta biết hay sở đắc , nhưng không phù hợp với nghiệp quả , hoàn cảnh và tâm thân của ta , thì nhờ sự trình bày với tâm vô phân biệt của trí bát nhả ở nơi đây , sẽ giúp cho những hành giả khác có căn cơ phù hợp với pháp môn đó được duyên lành mà đắc pháp .
Thì như vậy , những điều Quý Huynh trình bày trên diển đàn nầy cũng đáng cho AS quý trọng , nên AS ráng dành một ít thì giờ để hầu chuyện cùng Quý Huynh cũng không tiếc ...
Vấn đề quan trọng , là mọi người đều được vui vẻ và được sở đắc tâm nguyện của mình , cùng có thêm một người bạn đồng hành tốt trên con đường tâm linh vậy .

Huynh Lảng Tử Tam Phong , người nào luyện Nội Kình Nhất Chỉ Thiền lên đến trình độ cao cấp , cũng có thể cách không trị bệnh hay quăng liệng địch thủ một cách dể dàng , hay họ có thể dùng pháp nầy mà cách không , quăng liệng đệ tử văng nhào lăn vòng dưới đất , để hướng dẩn đệ tử luyện bài đả công hay thiết bố sam vậy .

Huynh Tâm Ấn Diệu ngộ , những thông tin trong Thập Tam Chân Kinh là do một người bạn cho biết trong lúc đàm đạo , AST2 thì tập pháp môn khác .

Sau thời gian dài xuyên qua các pháp môn hiển mật , AS đã tâm đắc phần nào về các pháp môn cùng kiến thức vô lậu của chân thần , những kinh nghiệm cùng ấn chứng nầy đã được trình bày rải rác trong những bài viết của AS trên các website khác nhau ... AS có được những sở đắc như ngày nay , đó là một quá tr̀inh gian khổ nhẩn nại , tiệm tiến vô hình tự nhiên vậy ; cũng nhờ đó mà AS dám nói những điều và những thông tin mà những thông tin nầy dể gây hiểu lầm và dị ứng đối với những người ngoài cuộc và những vị sơ cơ mới đến với thế giới huyền môn , nhưng cũng nhờ đó mà AS cũng học hỏi được nhiều điều ở những vị nầy là : Đừng nói những gì vượt khỏi sự hiểu biết của người đối diện , mà hảy nói những gì họ thích và cố vận dụng những kỷ thuật tâm linh diệu hữu sở đắc của ta mà vô hình giúp họ nếu có thể được ; còn không thì nên rời khỏi người đó để họ hưởng những quả của họ vậy ; đó là AS vận dụng những điều nầy trong cuộc sống ; còn trên các website tâm linh đây , vì là nơi Long Xà Quần Hợp , Tiềm Long Phục Hổ , Ngọa Hổ Long Đàm .....thì mọi người cứ trình bày những sở đắc của mình mà không sợ hiểu lầm , vì một loại gạo nuôi vạn người ăn , thì tùy theo cách nấu của người muốn ăn vậy ; Cũng như AS đang biên dịch một đề tài Tập xuất hồn trong 30 ngày , AS có nói đây chỉ là chuyện viết để đọc cho vui chơi thôi , không nên tập , AS không chịu trách nhiệm , thì có một người sơ cơ có hỏi : Chuyện thì như thật , mà không tập được là nghĩa làm sao ? Đương nhiên , nếu một người có căn cơ huyền học sẻ thấy pháp môn nầy như thế nào , có những điểm nào tương tự với Di hồn đại pháp , hay xuất chân thần ....sẻ giúp họ bổ túc những kỷ thuật mà pháp môn họ không dạy rỏ ràng ....mà họ không cần nêu lên những câu hỏi đầy tính khoa học hiện đại và logic như những người sơ cơ hay những người ngoài cuộc vậy .
Những nhà huyền thuật chân chính , sống trong một xả hội qui ước , đừng nên để lộ thông tin mình là nhà huyền thuật , mà chỉ xử dụng những quyền năng nầy một cách vô hình mà thôi ; vì thế trật tự của một xả hội qui ước được thăng bằng dưới sự hổ trợ của quyền năng vô hình , mà nhà quyền thuật đả âm thầm khai triển thần thông ;như thế , nó rất phù hợp với cuộc sống hằng ngày cùng niềm tin vào truyền thống đạo đức và phong tục tập quán tín ngưỡng của quần chúng nơi nhà huyền thuật cư ngụ .

Việc dùng bùa chú của vị Thầy trong Viên Quang Bí Thuật chỉ là những nghi thức bên ngoài , có hai tác dụng , một là phù hợp với thói quen của phong tục truyền thống hay theo từng pháp môn , hai là tạo cho không khí của trường tâm lý chung quanh được thống nhất và chuyên chú , ngoài ra vị Thầy trong khi thí pháp , thì có riêng một quá trình vận chuyển tâm thức của mình theo một vận lộ riêng bên trong . Hình thức bên ngoài khi làm phép nơi công cộng , thì cần chế biến cho phù hợp với môn phái hay phong tục tập quán và đạo đức , luật lệ của nơi vị Thầy cư ngụ ; còn bí pháp vận dụng bên trong tâm thức , thì chỉ có vị Thầy và những người có trình độ cao tay ấn mới biết được mà thôi ; đó là chưa kể khi vị Thầy luyện những bí pháp đặc biệt , thì phải chọn nơi kín đáo , không cho bất ai , kể cả thú vật như chó mèo gà cũng không thể cho thấy được , vì nhiều khi những qui trình và động tác , diện mạo cùng tâm sinh lý bên ngoài của người tập vận chuyển do những dòng nội khí luân chuyển bên trong , cũng như tâm năng bộc phát ảnh hưởng lên thân thể của người tập lúc đó , rất là dị thường là tùy theo từng pháp môn và bí pháp ; nếu có ai thấy được , sẻ gây những trở ngại trực tiếp hay gián tiếp cho người tập , đó là chưa nói đến làm xáo trộn khí trường và tâm năng của người đang tập , có thể gây trở ngại hay nguy hiểm cho người đang tập .
Còn vấn đề dùng định lực đưa thần thức con người lui về quá khứ , để thấy được tiền kiếp hay đưa chân thần của mình sang cảnh giới khác ; nó cũng giống như việc vị Thầy trong Mật Tông đưa tay lên đầu để làm phép quán đảnh cho đệ tử , ngoài việc đã thông kinh mạch , tăng lực gia trì cho đệ tử , nhiều khi tùy theo trường hợp cần đến , vị Thầy nầy cũng có thể dùng định lực và niệm lực của mình để đưa thần thức của đệ tử đến một cỏi nào đó trong quá khứ hay trong tương lai , để giúp khai ngộ thức giác tâm linh và bồ đề tâm của đệ tử , hầu tăng thêm lòng tin trong pháp môn , mà tăng tiến tu hành trong tương lai .
Vấn đề dùng định lực đưa thần thức con người lui về quá khứ hay đi đến tương lai , hay đưa chân thần của mình sang cảnh giới khác ; khi người nào tập đúng pháp môn và thành công , thì đều có thể làm được như thế , nhưng cơ cấu cùng sự vận hành linh nghiệm bên trong , thì cả vị Thầy cũng không giải thích được , nó giống như việc xữ dụng Ngũ Quỷ vận Tài , Thiên Linh Cái hay Âm Binh Thiên Tướng vậy . Pháp môn bí thuật thì vẩn được lưu truyền nội môn , từ xưa đến nay không hề bị mất trên trái đất nầy , nhưng khi nào nó được giải thích dưới sự hiểu biết hiện đại , thoát ra khỏi hào quang của tín ngưỡng và những ngôn từ bí ẩn của huyền môn và biểu tượng của huyền bí học , thì ngày ấy những pháp môn bí thuật nầy sẻ là khoa học phổ thông trong xả hội , được giãng dạy trong nhà trường song hành với trí huệ và một nền văn hóa đạo đức mới , phù hợp với việc xử dụng nó , trong mục đích mang lại sự hài hòa , hạnh phúc , thịnh vượng và ấm no cho nhân loại .....
Và con người khắp mọi nơi kể cả chúng ta hiện nay , đang trực tiếp hay gián tiếp , dù vô tình hay cố ý cũng đang thúc đẩy tới trước , để hình thành Kỷ nguyên tâm linh mới vậy .

Hiện nay trên trang mạng Việt Lý Số đang có một nick mang tên dungkq đang trình bày chủ đề dưới ý thức mới , giống như mục đích AS đang theo đuổi , AS tạm trích vài thông tin liên quan đến chủ đề nầy để các bạn tham khảo và mời các bạn nên sang trang web nầy gấp để theo dỏi bài viết , trình độ thức giác và kiến thức khoa hoc̣ khá cao của người viết làm cho bài viết thêm phần giá trị , tuy nhiên cần phải xem hết bài mới có thể đánh giá được giá trị thực dụng của nó ; để khỏi mất dịp bị xóa đi , nếu có ai đó có thẩm quyền thấy nó quá quan trọng về tầm vóc nào đó , thì mất dịp của các bạn vậy :

Học thuyết dungkq

Bản Chất Của Ý Thức – Hay là: Sự Tồn Tại Sau Khi Chết
Bản Chất Của Ý Thức – Hay là: Sự Tồn Tại Sau Khi Chết

Mục lục:
1- Dẫn nhập
2- Bản chất của ý thức hay Linh hồn là gì?
3- Mồ mả, tâm linh người đã khuất
4- Sức mạnh của niềm tin.
5- Tinh thần dân tộc, tinh thần tôn giáo và bản sắc tâm linh
6- Thiên tài, giáo chủ, những nhà lãnh đạo là những người như thế nào?.
7- Bí ẩn của những lời nguyền và bùa chú Đông – Tây
8- Bí ẩn của thuyết “Vạn vật hữu linh”
9- Giải thích về hiện tượng tiên tri? Tại sao trong kinh thánh có thể tiên tri một cách khái quát về sự va chạm của các thiên thạch đối với trái Đất?
10- Sự hình thành và tồn tại của vũ trụ.
11- Âm – dương ngũ hành có phải là một lý thuyết thống nhất vũ trụ?


Nick Dungkq nói :

Hiện nay tôi đã viết xong về cơ bản đề cương học thuyết giải thích những vấn đề có liên quan tới sự tồn tại của vật chất và ý thức, nhất là lý giải những vấn đề liên quan tới "ý thức" (linh hồn) nhằm lý giải những vấn đề huyền bí trong cuộc sống mà con người ta không hiểu được. Học thuyết này sẽ là sự chấm dứt của những tín ngưỡng, những niềm tin tôn giáo mù quáng. Và tôi tin rằng khi tôi hoàn thành tác phẩm này tên tôi sẽ được xếp ngang hàng với những nhà triết học vĩ đại nhất của thế giới từ khi có triết học đến nay.
Trong lý thuyết của mình tôi sẽ lý giải về cơ bản sự tồn tại của linh hồn "ý thức", sức mạnh của niềm tin, tiền kiếp, hậu kiếp, ngoại cảm, sự tiên tri, lý giải sự xuất hiện của các thiên tài, các nhà lãnh đạo, sự hình thành và tồn tại của thế giới....Mời mọi người từ từ theo dõi.



Nick thai-am nói :

Đây là một chủ đề rất mới và đề cập đến nhiều vấn đề mang tính vĩ mô. Về nội dung Thái Âm sẽ nghiền ngẫm từ từ. Chỉ xin nhắc tác giả Dũngkq chú ý đến vấn đề bản quyền tác phẩm để tránh những rắc rối không cần thiết sau này có thể xảy ra. Vấn đề nguồn gốc, bản quyền cũng đã từng gây tranh cãi nhiều trên diễn đàn.
Đang chờ được đọc tiếp những luận điểm của tác giả.


Dungkq nói :
Có thể hiện nay có nhiều người có ý kiến gần giống với tôi nhưng tất cả những lý giải đó đều rất mù mờ và thiếu tính thống nhất vì chưa ai thực sự nhận biết vấn đề này một cách rõ ràng nhất, nếu có tham khảo thì tôi mới chỉ tham khảo về cuốn "Định mệnh có thật hay không" của chú Thiên Sứ và cuốn " Triết học thế giới nên biết". Và ngôn từ cũng có giới hạn riêng của ngôn từ nên cho dù có muốn ăn cắp cũng không thể ăn cắp được vì đằng sau vấn đề này có rất nhiều bí ẩn chưa thể giải đáp (trừ dungkq vì tôi là người thai nghén nó nên chỉ tôi mới hiểu rõ nó là gì) nếu dungkq này không viết ra hết thì muốn ăn cắp cũng khó, chỉ cần tôi đặt ra vài câu hỏi ngược là bí ngay, nên không ngại chuyện ăn cắp bản quyền. "Cái gì của dungkq sẽ phải trả lại cho dungkq". Tôi sẽ dùng tác phẩm này làm tài sản cho Trung Tâm NCLHĐP để làm công trình nghiên cứu.
__________________
Lúc hứng ngả nghiêng trời đất rộng,
Cơn buồn xáo trộn cổ kim chơi.

Các bạn vào link sau đây để xem phần đầu :

http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=8448






AST2 tạm bút .
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:55 am

Cám ơn huynh AST2 đã có nhã ý cung cấp tư liệu mở mang kiến thức cho mọi người.

Love_Tamlinh cũng ham hiểu biết nên có ghé vào đọc, đọc xong khen tác giả dungkq (Kiều Quang Dũng) uống “ liều thuốc “ gì đó chắc linh mật lắm mà dám chê bai tất cả hiền nhân, kể cả Đức Khổng Tử, nhà khoa học Anh Xtanh, nhà triết học duy vật Kark Marx và cả Đức Thế Tôn Thichcamuni. Thật đáng khen, đáng khen.

Ai cũng hiểu, chỉ một người không hiểu... chắc chưa đọc nhiều tài liệu trên mạng internet, nên cứ tưởng rằng mình sắp phát minh ra một lý thuyết ghê gớm, có thể thay đổi thế giới !?!

Những “ phát minh “ đó đã được biết từ năm 1889, khi các Hội Tâm linh trên thế giới được thành lập, và được đăng tải trên các trang web sau đây:

1. The Mind is What the Brain Does"
http://www.nationalgeographic.com/ngm/0503/feature1

2. C.D. Broad, The Mind and Its Place in Nature
http://www.ditext.com/broad/mpn/mpn.html

3. Abhidhamma: Buddhist Perspective of the Mind and the Mental Functions
http://www.accesstoinsight.org/lib/a.../wheel322.html

4. Thymos - Piero Scaruffi's Studies on Consciousness, Cognition and Life
http://www.thymos.com/

5. Buddhist View of the Mind
http://www.aboutreincarnation.org/mind.php

6. Current Scientific Research on the Mind and Brain From ScienceDaily
http://www.sciencedaily.com/news/mind_brain/

7. Parapsychological Association website
http://parapsych.org

8. Psychic Science.com
http://www.mdani.demon.co.uk/para/

9. Website of the European Journal of Parapsychology
http://moebius.psy.ed.ac.uk/~info/ResearchCentres.php3
kính huynh AST2 : về công pháp nhất chỉ thiền thì tại hạ cũng có cuốn khí công thiếu lâm do hoàng thái biên soạn cũng có nói đến , công pháp " thiên long bát bộ " là công pháp nhất chỉ thiền cao cấp...
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Kính huynh ANHSANGT2, bài viết của dungkq khá sâu và kiến thức khá rộng. Nhưng văn khí có vẻ cao ngạo quá !
Bạn Langtutamphong, theo tôi biết thì Thiên Long Bát Bộ trong quyển Thiếu Lâm không phải là nội gia pháp trong Thập Tam Chân Kinh.
Chào Huynh Tâm Ấn Diệu Ngộ , Huynh Lảng Tử Tam Phong cùng các bạn ...
Chúng ta nên có thái độ tâm vô phân biệt , và chỉ chú trọng đến những khám phá cùng kiến giải Huynh dungkq , mà không nên chú ý đến tánh khí cá nhân của Huynh ấy ; chúng ta nên khuyến khích cùng cổ động để Huynh dungkq trình bày hết những kiến giải của mình , vì nếu vô tình không chú ý đến nội dung mà chỉ chú ý phê bình cá nhân hoặc từng chi tiết lặt vặt , mà không chờ xem được hết bài , thì e rằng sẽ làm chùng bước và lạnh đi nhiệt tâm của huynh dungkq .
Chúng ta cần xem hết bài , rồi sau đó đóng góp ý kiến bổ túc , xây dựng để vấn nạn được sáng tỏ hơn , rất ít khi có người bỏ ra công sức lao động và dám nói lên những vấn đề nhạy cảm nầy , vì hiện nay rất nhiều người tại các website khác có tài chỉ trích phê bình bàn ra hay phá hoại , ly gián thì hay , thì quá dể dàng , ai làm cũng được ; còn viết bài đóng góp và đóng góp xây dựng thì lại ít . Do đó , chúng ta nên tôn trọng sức lao động và chất xám tinh thần , cùng nhả ý cao thượng của Huynh dungkq tặng cho mọi người và Hội Khoa Hoc VN những kết quả khám phá của mình ; do đó , chúng ta nên hướng về Huynh dungkq với lòng quý trọng và cảm ơn sâu sắc vậy .
Mong sẻ có nhiều Huynh khác có những khám phá giá trị tương tự ...
Kính huynh ANHSANGT2! Tamandieungo xin cảm ơn những lời góp ý của huynh. Huynh nói đúng, mình cần chú ý vào những gì người khác đóng góp hơn là để ý tính cách thái độ của người để rồi chê cười, phê phán. Tu tập nhiều nhưng chỉ cần sơ hở một chút thì Tự Ngã nổi dậy ngay. Mọi oan kết trên cuộc đời này cũng bắt đầu từ những cái vụn vặt không đáng có như thế. Từ đây tôi phải tự quán xét mình thường xuyên hơn.
tamandieungo đã viết :

Kính huynh ANHSANGT2, bài viết của dungkq khá sâu và kiến thức khá rộng. Nhưng văn khí có vẻ cao ngạo quá !
Bạn Langtutamphong, theo tôi biết thì Thiên Long Bát Bộ trong quyển Thiếu Lâm không phải là nội gia pháp trong Thập Tam Chân Kinh.


hì ! thực tình tiểu đệ không biết gì về cuốn thập tam chân kinh nên không có sự đối chiếu được ... thực tình cuốn sách khí công thiếu lâm do hoàng thái biên soạn cũng chỉ trình bày sơ lược , thật khó để luyện và không dễ để hiểu...âu cũng là duyên chưa trọn vậy ...
_________________
KHÓA HỌC KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH
khicongduongsinh007@yahoo.com


Mời quý vị ghé cafe Ngẫu Nhiên và Tửu Lầu ^_*
Dưới đây là một loạt bài viết đặc biệt của Ánh Sáng – T2 – Úc Châu , xin chân thành dành riêng cho Thế Giới Bùa Ngải .Com .

Mọi sự trích dịch hay copy đều phải ghi rỏ nơi xuất xứ như sau :

Do hội viên ÁNH SÁNG - T2 - ÚC CHÂU biên soạn .
Ngày 07 tháng 05 năm 2007
http://www.thegioibuangai.com

Những thông tin trong các bài viết đặc biệt sau đây , lần đầu tiên được phổ biến công khai trên mạng lưới internet của người Việt chúng ta ; tùy theo môn phái , trình độ tu tập và trình độ thức giác , cùng kinh nghiệm ấn chứng của mổi người , sẻ có những trợ duyên khác nhau trên bước đường tu tập Mật Pháp . Tuy nhiên , soạn giả xin nhấn mạnh và cảnh cáo là , đọc giả chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật cũng như đối với bản thân , khi xử dụng những thông tin nầy ; xin hảy xem những thông tin nầy , như những tham khảo mà thôi , mọi sự ứng dụng , thực hành đều cần phải có Minh Sư đã từng đắc đạo qua môn nầy chỉ dạy .
Mọi công đức xin hồi hướng về sự thành đạt trong an lạc , khỏe mạnh và tinh tấn của mọi người , để cùng nhau xây dựng một thế giới nhân sinh đầy thịnh vượng và hạnh phúc viên mản .
Ánh Sáng – T2 – Úc Châu
Chân Thành Kính Bái ....

DI HỒN VÀ MỘNG DU ĐẠI PHÁP

CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG
 
移 魂 & 梦游大法

Phương pháp Mộng Quán Thành Tựu là một trong Naropa Lục pháp ; Phương pháp nầy của Mật Tông Tây Tạng đem tâm lý , khí , mạch của con người và chú ngữ kết hợp lại ; đây là một phương pháp huấn luyện dùng để kết hợp tâm , sinh lý và linh lực của con người lại làm một ; trong quá trình huấn luyện phương pháp nầy sẻ mang ý thức của con người đi sâu vào trạng thái siêu thức ; và chỉ khi con người đi vào được trạng thái siêu thức , thì các loại siêu năng lực , siêu ý thức sẽ là cơ bản cho việc khai phóng năng lực tâm linh và những khả năng tiềm ẩn của con người .
Tuy nhiên , sự hoạch đắc siêu năng lực tâm linh xuyên qua mộng quán thành tựu không phải là mục đích cuối cùng ; mà khi con người đi sâu vào giấc ngũ , đưa tâm thức lên đến trạng thái siêu ý thức , để làm hiển lộ tự tính quang minh là bản lai diện mục của mình , từ đó sẻ hiểu thấu được sự bí mật của nhân sinh vũ trụ , nắm được con đường siêu xuất thoát ly sanh tử luân hồi , tự giác tiến hành cuộc biến hóa thăng hoa cho sanh mạng của mình , biến sự lưu chuyển của sanh tử , thay đổi những khổ nảo không viên mản của sanh mạng thành Thường – Lạc – Ngả – Tịnh , hưởng được hạnh phúc vĩnh hằng , một sanh mạng tự do tuyệt đối viên mản . Đó mới là mục đích cuối cùng trong quá trình phấn đấu và sự trở về cuối cùng của một sanh mạng được phát triển và được tiến hóa viên mản .
Nói đến Mộng Du , thì nhiều người liên tưởng đến một chứng bệnh mộng du . Chứng bệnh nầy được các nhà sinh lý học trong phòng thí nghiệm khám phá ra rằng , người đang trong cơn mộng du , thì thật ra là người nầy đang ở trạng thái ngũ mê rất sâu đến thời kỳ thứ 3- 4 trầm sâu trong giấc ngũ mê . Đối với chứng mộng du , Đông Y nhận rằng : Tâm chủ Huyết mà tàng Thần trí , Gan tàng Huyết và là nơi ngụ của Hồn ; tức tâm tàng Thần , Can tàng Hồn ; khi khí cơ của hai tạng Tâm và Can không điều hoà , thì Thần không chủ vị và hồn không có chổ dựa , nên Thần và hồn không an ; nên Hồn đi theo sự dẩn dụ của Thần trí trong lúc ngũ mà tạo nên chứng mộng du .
Nhưng chúng ta nói ở đây , không phải là chứng bệnh mộng du thường tình , mà chúng ta đang nói đến Mộng Quán Thành Tựu Pháp là một pháp môn tu trì cao cấp của Mật Tông Tây Tạng , còn gọi là Mộng Du Càn Khôn đại pháp .
Sinh mạng của con người do Thọ Mạng – Thân Nhiệt và Tâm Thức hợp thành , khi ba yếu tố nầy giải thể , thì con người bị chết . Trong thực tế , chỉ có sự phân ly của Ý thức và Thân Nhiệt ; do đó thân nhiệt nơi nào trên thân thể người chết cuối cùng biến mất , thì nơi đó là cửa ngỏ cuối cùng cho thần thức con người rời khỏi cơ thể . Theo đó , người ta nói rằng : Đỉnh Thánh , Nhản Thiên Sanh , Tâm Nhân , Phúc Tu La , Giang Quỷ , Tất Súc Sinh , Lưởng Túc Đọa Địa Ngục ;Trên đỉnh đầu là Thánh , mắt là sanh trên trời , ở tim là người , ở bụng là quỷ tu la , ở hậu môn là quỷ , ở đầu gối là súc sinh , ở hai chân là đọa địa ngục ; nếu Thần thức đi ra ở đỉnh đầu thì sẻ được siêu phàm nhập Thánh , được vãng sanh về Tịnh Độ Phật Quốc .
Mọi người đều có nghe Phật Sống tái sinh , khi một vị Phật sống viên tịch , linh hồn lìa khỏi xác , sẻ chuyển qua trong một cơ thể của một trẻ sơ sinh vừa mới chào đời ; đứa trẻ nầy là Phật sống được tái sinh , được xem là hóa thân của Phật , để tiếp tục hóa độ chúng sanh .
Linh hồn được nói đến ở đây , thực tế là đệ bát thức là A lại Da Thức của con người sau khi chết ; khi bảy thức đầu đả tan rả , thì thức thứ tám nầy là A lại Da Thức , sẻ do sự dẩn dắt của nghiệp lực Thiện Ác , đi thọ báo trong sáu nẻo luân hồi .
Khi có cơ hội nhân duyên hòa hợp , sẻ được tái sanh vào nhân đạo , và bản ngả sẻ được tạo nên do sự hòa hợp của ngũ uẩn , và ngũ uẩn là căn bản của sự tổ hợp và hình thành thế gian và cấu thành vũ trụ vạn hữu .
Ngũ uẩn gồm có Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức ; mà Sắc là chỉ nhục thân của con người , do tứ đại Đất – Nước – Gió – Lửa tạo thành : Đất là chỉ những vật rắn , cứng chắc trong thân con người như xương cốt , da thịt ; Nước chỉ máu huyết , các chất nội tiết , mồ hôi , các chất bài tiết ...., nói chung những chất lỏng trong cơ thể ; Lửa là chỉ thân nhiệt cùng sinh mạng lực chu lưu trong cơ thể con người ; Gió là chỉ khí hô hấp và các loại khí lực trong cơ thể .
Thọ – Tưởng – Hành – Thức là chỉ tinh thần tức là Tâm ; Thọ là do tiếp xúc với cảnh vật mà sinh ra trạng thái tâm lý của sự cảm thọ , tương đương với cảm tình trong môn Tâm lý Học . Tưởng là do sự thu nhận những hình tượng bên ngoài rồi từ đó hình thành ra những khái niệm về những hình tượng đó . Hành là đối cảnh mà sinh ra sự quyết định của nội tâm làm ngôn ngữ và hành vi được phát sanh ra ; Thức là chỉ sự phân biệt của ý thức , được gọi là sự nhận thức trong tâm lý học .
Trong ngũ uẩn thì Thức được xem như là Bản ngã của con người , nó có khả năng nhận thức được Sắc – Thọ – Tưởng – Hành là những sở thuộc của nó ; nói một cách khách quan , những đối tượng nhận thức gồm Thức và Danh Sắc ; Sự nhận thức đối tượng chủ quan hay khách quan không phải là hai vật khác nhau ; vì Thức là Thức trong Danh Sắc và Danh Sắc là Danh Sắc trong Thức ( Thí dụ như ta thấy bông hoa , thì cái ta thấy không phải là bông hoa thiệt , vì hình bông hoa được ta nhận thức chỉ do sự phản chiếu của ánh sáng đi vào mắt ta , và chuyển thành những tín hiệu sinh hóa điện trường sau đó hiện ra ở vùng hậu nảo , mà trở thành sự nhận thức về bông hoa mà thôi , chứ cái mà ta nhận thấy chỉ là thức của ta nhận thấy , chứ cái ta thấy không phải là bông hoa thật ) ; cho nên nói : Thức duyên Danh Sắc , Danh Sắc duyên Thức , cái nầy sanh thì cái kia sanh , cái nầy diệt thì cái kia diệt ; vạn pháp duy tâm tạo vậy .
Thức được phân chia ra thành bát thức : Mắt – Tai – Mủi – Miệng – Thân – Ý – Mạt Na – A Lại Da ; mà A Lại Da thông thường người ta cho là Linh hồn , còn gọi là Thần thức hay là Linh Thể , trong Duy Thức Học còn có thức thứ chín là Cưu Ma La Thức được dịch là Vô Cấu Thức – Bạch Tịnh Thức là căn bản của sự giải thoát để thành Phật ; Thức nầy có khả năng hội chứng được chân tâm của thực thể ; Thức nầy không sanh không diệt , thanh tịnh vô nhiểm ; thức nầy được gọi khác đi là Chân Tâm ; nhưng đa số công năng của nó lại được nhiếp vào A lại Da thức để sở tàng vô lậu chủng tử .
Vấn đề tu trì căn bản trong Phật Pháp là Tu trì cái “ Thức”, từ đó để thoát ly sanh tử , siêu xuất lục đạo luân hồi , minh tâm kiến tánh , tịnh hóa bát thức tâm điền , chuyển thức thành trí , thường lạc ngã tịnh vậy .

Trong Mật Tông Tây Tạng có Pháp Bổn Tôn , pháp nầy có thể tu tập trong một thời gian ngắn , dùng nội khí tu luyện có thể hình thành “ Thiên Thân ” đồng hình với Bổn Tôn của mình ; mà Vô Thượng Du Già gọi là “Ảo Thân ” .
Ngoài ra , Vô Thượng Du Già của Tạng Mật còn có một số pháp môn đặc thù có thể giúp con người siêu xuất sanh tử luân hồi như Pháp Phowa – Trung Ấm Thành Tựu Pháp – Hoán Thể Pháp – Tự Tại Chuyển Thân Pháp – Đoạt Xả Pháp .......
PHÁP PHOWA
  颇哇法

Pháp Phowa , được dịch ý là Chuyển Thức Pháp ; lợi dụng con người trong lúc chết , dùng Thần Thức hợp cùng Nội Khí đi ra khỏi cơ thể từ đỉnh đầu mà vảng sanh Phật quốc , đạt được sự giải thoát khỏi sanh tử . Trong lúc còn sống bình thường dùng quán tưởng phối hợp cùng phương pháp đề khí để đả thông con đường ở đỉnh môn , tức là Khai Đảnh , quán tưởng Phật A Di Đà đang ngồi trên đỉnh đầu ; khi tu tập được thành tựu ; có thể làm chủ được sanh tử ; sau khi thành tựu được pháp nầy , cần tu phối hợp với pháp Trường Thọ Phật ; Để khi lâm chung hay muốn vảng sinh sớm theo ý muốn của mình , có thể y theo pháp nầy , đem Thần Thức của mình đi theo con đường quen thuộc đã được thực tập thường ngày , đưa lên đỉnh đầu nhập vào trong tim của Bổn Tôn , tức thì có thể vảng sanh đến ngay nơi tịnh độ của Bổn Tôn . Pháp nầy có thể tu hành thành tựu ngay lập tức trong 7 đến 21 ngày , là một con đường ngắn và nhanh nhất để thành Phật .
Những hành giả đã từng tu Tạng Mật Đại Thủ Ấn , Đại Viên Mản ... đang ở trình độ trung cấp , nếu tập thêm pháp nầy , có thể giúp hành giả nhanh chóng đạt đến sự giải thoát sanh tử ngay .
TRUNG ẤM THÀNH TỰU PHÁP

中阴成就法

Trung Ấm Thành Tựu Pháp , còn gọi là Trung Ấm Thành Phật Pháp , Bí pháp nầy sẻ được xử dụng khi con người khi sắp chết , dùng Vọng Niệm Chỉ Tức , Bản Tính Quang minh tự hiển lộ , gọi là Tử Thời Quang Minh ( tức Ánh Sáng trong lúc chết ) – Thực Tướng Trung Hữu .
Hằng ngày trong tu tập , hành giả vào trong Thiền Định với trạng thái siêu giác , hành giả thường chú tâm để thể nhận sự hiển lộ của Lâm Tử Bát Tướng , tức tám hiện tượng của trạng thái cận tử ; từ đó thực tập lập lại quá trình nầy thường xuyên cho đến mức thuần thục ; đương nhiên trong lúc sống hành giả chưa thể kiến đạo thành Phật , nhưng khi đến lúc cận tử , hành giả tự nhiên sẻ chú ý thể nhận mà hòa nhập vào Bản Tính Quang Minh để tức thời có thể siêu thoát sanh tử .
HOÁN THỂ PHÁP
换体法

Là một phương pháp thành tựu bí mật của hành giả du già , khi cơ thể̀ đã xuy thối , hành giả có thể dùng phương pháp nầy để hoán đổi chuyển di , mà có thể còn được sinh hoạt tồn tại trên cỏi nhân gian ; Tại Ấn Độ và trong giới Đạo Gia cũng có nhiều người tu trì phương pháp nầy .
Phương pháp nầy , đầu tiên cần tìm một xác chết , không phải chết vì bệnh tật của một thanh niên khõe mạnh , sau đó dùng thuật Phowa , đem thần thức của hành giả xuất ra ngoài , rồi tiếp đến nhập vào xác chết nầy , như vậy xác chết của thanh niên nầy sẻ sống trở lại và thân xác củ của hành giả vừa rời khỏi sẻ bị chết đi , mặc dù thể xác củ của của hành giả đã bị chết đi , tướng mạo cùng danh tính bên ngoài nay đã bị thay đổi ; nhưng nhân cách cùng ý thức của hành giả lúc trước vẩn còn giử được đầy đủ .
TỰ TẠI CHUYỂN SANH PHÁP :
自在转生法

Do thành tựu của sự tu học , hành giả có thể dể dàng chuyển sanh tại trần thế để tiếp tục hoằng dương Phật pháp ; hành giả nhờ đã nắm chắc và nhận thức được các cảnh giới trung hữu cùng các ảo tướng của nó , thông qua đó hành giả có thể chọn đúng cha mẹ nào có duyên với mình ; hành giả dùng chỉ định nhập thai pháp , khởi đảo tưởng để nhập vào bào thai mới , như vậy hành giả đã tự tại chuyển sanh hay là đã hóa sanh rồi vậy . Đây là một phương pháp , mà đa số giới Phật giáo tại Tây Tạng thường dùng , mà người đời thường gọi những linh đồng chuyển thế nầy là Phật sống .
ĐOẠT XẢ PHÁP
夺舍法

Là đợi lúc đứa bé trong lúc mới sanh hay sau khi sanh , hành giả dùng oai lực phước đức thần thông của mình , thỉnh cầu thần thức của đứa bé rời khỏi , rồi sau đó hành giả đi vào trong nhục thể mới nầy , nhờ đó hành giả được sinh tồn trên cỏi trần mà vẩn còn bảo tồn được toàn bộ ký ức và ý thức củ .
Do đó , phương pháp đoạt xả nầy , là chiếm lấy nhục thể của người khác ; nhưng cơ hội nầy rất khó sở đắc , cùng phương pháp nầy rất ẩn mật , không dể gì mà truyền lại cho người khác ; nên có rất ít người nắm vững rỏ ràng về phương pháp nầy .

Trong pháp du già của Mật Tông Tây Tạng , hành giả có thể chuyển di thần thức của mình ra khỏi thân thể để đi đến một nơi nào đó và làm những việc , mà nhục thân của hành giả không thể đi đến đó làm được , sau khi hoàn tất công việc hành giả trở về nhục thân của mình như trước ; phương pháp nầy được gọi là Linh Thể Xuất Du hay Thần Thức Xuất Du ; còn bên Đạo Gia gọi là Nguyên Thần Xuất Khiếu .
Thần Thức Xuất Du Pháp
hay Mộng Du Đại Pháp

Sau đây là phương pháp tập Thần Thức Xuất Du Pháp tức Mộng Du Đại Pháp , mà Mộng Du Đại Pháp là một tiểu pháp môn , nằm trong Mộng Quán Thành Tựu Pháp của Naropa Lục Pháp :

Khi hành giã đã tu tập thành công đại pháp nầy rồi , hành giả có thể xuất thần thức du hành khắp mọi nơi và có thể trở về một cách an toàn .

Phương pháp tu tập :

Mổi đêm trước khi đi ngủ , hành giả dành thì giờ tương ứng thích hợp rộng rải cho bài tập . Trước tiên , Hành giả ngồi cho ngay ngắn , chắp hai tay lại trước ngực , dùng tưởng tượng đem trái tim của mình dời đến ngay giửa ngực , tức là Tâm Luân giữa trung mạch , tiếp đến hành giả tưởng tượng trái tim của mình biến thành một hoa sen trắng nằm trên một đài hoa màu xanh lá cây , sau đó hành giả tưởng tượng trong hoa sen đó hiện lên một chủng tử tự của Bổn Tôn đã ban cho , chủng tử tự nầy hiện ra thật tinh khiết và rỏ ràng .
Tiếp đến hành giả lại tưởng tượng , ở trên đỉnh đầu của mình có một hoa sen khác , trên hoa sen nầy có Bổn Tôn của mình đang ngồi ; trong tâm niệm của hành giả lúc nầy phải tưởng niệm tam vị nhất thể là Thượng Sư – Bổn Tôn – Đại Nhật Như Lai ; hành giả tưởng tượng trung mạch của Bổn Tôn tương thông cùng trung mạch của hành giả , đường tuyến dưới cuối cùng trung mạch của Bổn Tôn cùng cùng tuyến dưới cuối trung mạch của hành giả tương thông , hành giả tưởng tượng ở chính giửa hoa sen của Bổn Tôn cũng có một đóa chủng tử tự được hình thành bởi minh điểm màu trắng .
Sau đó hành giả niệm thỉnh văn sau đây :
Kính thỉnh chư Thượng Sư , thí cho đại gia trì
Mộng trung du càn khôn , phổ chúng chư chung thổ

Tiếp đến , hành giả tưởng tượng minh điểm của Bổn Tôn phát quang chiếu sáng cùng minh điểm của hành giả tương chiếu , như hút lấy lẩn nhau vậy ; tiếp đến hành giả tưởng tượng minh điểm chủng tử tự của hành giả bị minh điểm của Bổn Tôn hút lấy , kéo minh điểm chủng tử tự của hành giả lên trên và nhập làm một với minh điểm của Bổn Tôn thành nhất thể . Một lúc sau , hành giả tưởng tượng , đài hoa sen màu xanh lá cây có hoa sen trắng đang nằm ở tâm luân của hành giả , lúc nầy nó phát sanh ra một sức hút rất mạnh , nó hút lấy minh điểm chủng tử tự của hành giả đang nhập một với Bổn Tôn , phải tách rời ra và đi theo ánh sáng trong trung mạch mà đi lần xuống , trở lại nằm trong hoa sen trắng trên đài sen xanh nơi tâm luân của hành giả .
Hành giả cứ tiếp tục thực tập như thế mổi buổi tập 21 lần , một thăng một giáng là tính một lần .
Đến cuối cùng , hành giả tưởng tượng đức Bổn Tôn cùng hoa sen trên đỉnh đầu , đang chiếu sáng quang minh sáng ngời tủa ra khắp nơi và hình ảnh nầy từ từ đi hạ xuống nhập làm một vào trong minh điểm của hành giả , tức Đức Đại Nhật Như Lai – Bổn Tôn – Thượng Sư cùng minh điểm của hành giả hợp thành tứ vị nhất thể vậy .
Lúc nầy , hành giả có thể nằm xuống để ngủ , tốt nhất là nằm với tư thế của phương pháp Đại Thán Thi , tức hành giả nằm ngữa , hai tay để xuôi xuống hai bên thân mình , hai chân hơi dang ra , mời ngón chân hướng lên trời ; lúc nầy hành giả phải có quyết tâm và ý tưởng mạnh là muốn nguyên thần của mình xuất du ra ngoài trong khi hành giả đã ngủ , để nguyên thần của hành giả đi đến một nơi nào đó mà hành giả muốn đến .
Trước khi hành giả đi vào giấc ngũ , toàn thân của hành giả phải buông thả thư thái , hành giả tập tưởng tượng nguyên thần của mình đi ra khỏi thể xác từ nơi đỉnh đầu ; trong quá trình nguyên thần xuất ra khỏi thể xác , cơ thể lúc đó có thể bị rung động mạnh , hoặc xuyên qua sự rung động nầy có thể làm chiếc giường nằm cũng bị rung động theo ; hoặc có khi hành giả cảm thấy cơ thể của mình hình như bị xé nát ; một điều quan trọng là hành giả nên nhớ , hành giả thấy bất cứ điều gì có xảy ra , hành giả vẩn cứ bình tỉnh , đừng nên lo sợ mà cứ tiếp tục tu tập ; sau khi luyện tập được vài lần , hành giả có thể an nhiên đi vào giấc ngũ , đến một lúc nào đó hành giả sẻ đi đến một cảnh giới siêu giác nào đó trong giấc ngũ , tức nguyên thần xuất du . Trong lúc hành giả luyện tập , nếu lở hành giả có vô tình rơi vào giấc ngũ , thì cứ việc ngũ tự nhiên mà vô ngại , không sao cả .
Có một số người trong những giấc ngũ bình thường , cơ thể đột nhiên bị chấn động mảnh liệt và người nầy có một cảm giác như mình vừa bị rớt xuống từ trên cao ; thì đó là một hiện tượng nguyên thần của người nầy đang sắp xuất ra khỏi cơ thể , nhưng đã bị nhục thể của họ hút trở lại . Thông thường người nào , thường có những hiện tượng trên trong lúc ngũ , thì khi tập phương pháp nầy sẻ dể dàng xuất nguyên thần hơn .
Khi nguyên thần đã thực sự xuất khỏi cơ thể , thì có thể nhìn thấy nhục thể của mình vẩn còn nằm trên giường , và mình vẩn cảm thấy bình thường , không phải vừa đi ra và đang ở ngoài cơ thể , mà chỉ thấy là mình vẩn bình thường và cơ thể đang ở ngoài mình vậy . Khi nguyên thần thật sự xuất ra ngoài rồi , khi đi du hành đến đâu , thì hành giả sẻ có cảm giác bình thường như lúc đi du hành bằng nhục thân vậy .
Do đó , hành giả cần phân biệt các trạng thái của Linh Thể Xuất Du và trạng thái Nhập Định Mộng Trung Viển Thị hoặc trạng thái đi vào Siêu Giác , đem về những thông tin từ xa , có những khác biệt với những giấc mộng , có những cảnh mộng mị bình thường khác .
Bình thường hành giả đi dạo chơi đến một nơi nào đặc biệt và ưa thích , hành giả cần lưu tâm quan sát các chi tiết và tối về trước khi đi ngủ , hành giả thành khẩn phát tâm nguyện mảnh liệt , là trong giấc ngũ nguyên thần của hành giả sẻ đi đến dạo chơi nơi đó ; đây cũng là những bài tập bổ ích hổ trợ cho việc thành tựu Mộng Du Đại Pháp vậy .
Khi hành giả tập phương pháp nầy , cơ thể hành giả cần mặc quần áo rộng rải , nằm cho thoải mái , loại bỏ những mệt nhọc của cơ thể và những tình cảm căng thẳng , như vậy sẻ dể xuất nguyên thần hơn .
Trong lúc tập Mộng Du Đại Pháp , Linh Thể của hành giả lần đầu xuất ra ngoài , thì chỉ nên đi vòng vòng quanh nhà hay chỉ đi đến những nơi gần ; khi nào đã quen thuộc việc xuất nhập , thì lúc đó hành giả chỉ cần tâm niện muốn đến nơi nào thì hành giả sẻ hiện diện tại nơi đó ngay lập tức . Trong khi nguyên thần hành giả xuất du , thì có một sợi dây ánh sáng nối liền nguyên thần của hành giả với nhục thể , trong khi đó nếu có ai chạm hay nhúc nhích nhục thể của hành giả , thì nguyên thần sẻ được sợi dây ánh sáng nầy kéo về nhập một với nhục thân ngay tức khắc .
Hành giả không nên lo sợ khi đả xuất nguyên thần ra ngoài cơ thể , mà trong tâm hành giả lúc nào cũng thường thành khẩn , tâm niệm mình cùng Đức Đại Nhật Như Lai , Bổn Tôn , Thượng Sư , tứ vị nhất thể , tức mình cùng các vị nầy là một vậy , thì niềm tin hộ trì của các vị nầy sẻ hộ trì cho tâm hành giả được an định .
Khi hành giả nguyên thần xuất du , bất ngờ gặp những tình huống kinh hải , thì hành giả chỉ cần niệm tụng chú ngử của Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng sư là được ; nếu do tình trạng quá căng thẳng , nguyên thần của hành giả không thể nhập trở về nhục thân , thì hành giả cũng chỉ cần niệm tụng chú ngử của Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng sư , thì nguyên thần của hành giả sẻ tức tốc được nhập trở về nhục thân một cách thuận lợi .
Giai đoạn kết thúc bài tập :
Sáng hôm sau , trước khi thức dậy , hành giả vẩn nằm trong tư thể củ và kết thúc buổi tập , bằng cách quán tưởng hoa sen từ từ thu búp lại , bao bọc lấy minh điểm chủng tử tự vào trong giửa hoa sen , và hoa sen từ từ hóa trở lại hình trái tim của hành giả và hành giả đưa trái tim của mình trở về vị trí của nó ở bên trái lồng ngực như củ . Như vậy buổi tập đã hoàn tất , hành giả có thể từ từ mở mắt , nhúc nhích chân tay và từ từ ngồi dậy , với một cảm giác kiết tường , an lạc , khõe mạnh và một ngày vui tươi đầy may mắn .
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:56 am

PHƯƠNG PHÁP TÁI SINH CỦA HUYỀN THUẬT VÔ CỰC

CHAOS MAGIC .

THEO HUYỀN BÍ HỌC TÂY PHƯƠNG :

Sự tái sinh là phần trọng yếu nhất , trong bước tiến hóa cuối cùng của một hành giả huyền thuật . Đây là một nghi thức quan trọng bực nhất , mà hành giả cần phải phối hợp hai yếu tố quan trọng là tình dục và sự chết , để thành tựu và đạt được cấp bực Thầy trong huyền bí học .
Trong những trường hợp bình thường , khi cơ thể vật chất tan rả , thì phần tinh anh của con người cùng sinh mạng lực cũng tan rả và trả trở về kho dự trử trong vũ trụ .
Nhưng đối với một nhà huyền thuật giỏi , người nầy có thể dùng những kỷ thuật huyền thuật để làm mạnh thêm thần hồn của họ , và như thế thần hồn của họ có đủ sức mạnh , để chuyển di thần thức của mình đi vào một cơ thể mới ;mà dạng biểu thị đặc biệt của quyền năng nầy , là khả năng sự tồn trử ký ức của mình dưới một dạng thể phách đặc biệt , thông qua đó hành giả có thể thành đạt bước cuối trong con đường huyền thuật và trờ̉ nên bậc Thầy trong môn nầy .
Nghi thức tối cao nhất trong quá trình tái sinh ; tùy theo khả năng và hoàn cảnh nhà huyền thuật gia có thể chọn ba nghi thức tái sinh như sau : Hồng Nghi Thức – Hắc Nghi Thức và Bạch Nghi Thức .
HỒNG NGHI THỨC :
Nghi thức nầy được tiến hành bởi nhà Huyền Thuật Gia Nam và nó thỉ được tiến hành khi nào cơ thể của người nầy vẩn còn khõe mạnh , mặc dù cơ thể của họ đã quá già yếu hay bị thương tật ; thì lúc đó nhà huyền thuật gia nầy tìm một người nữ , trẻ tuổi và khỏe mạnh , và từ đó qua sinh hoạt mà hình thành một mối tình thương yêu sâu đậm gắn bó với nhau giữa hai người , từ tâm hồn lẩn thể xác .
Sau một thời gian , tình yêu nồng ấm , người nữ được thụ thai ; thì trong gần cuối thời gian hai tháng đầu của bào thai ; với sự sắp đặt sẳn và thỏa thuận của hai người , nhà huyền thuật nam sẻ tự ý chấm dứt sinh mạng nhục thể của mình bằng một phương pháp huyền thuật đặc biệt và dùng kỷ thuật chuyển di thần thức của mình để xuất thần thức cùng ký ức của mình ra ngoài cùng với nguyện vọng mảnh liệt là nhập vào bào thai mới trong bụng của người yêu .
Lúc nầy thần thức cùng ký ức của nhà huyền thuật gia được cũng cố tồn trử và đang hoạt động dưới dạng thể vía hoàn chỉnh – Astral travel workings , và nó có độ rung động đồng bộ và được hút vào bào thai với sức hút phát ra từ tâm tư nguyện vọng thương yêu của người nữ . Đương nhiên là trước đó , nhà huyền thuật gia đã chuẩn bị đầy đủ từ tinh thần cùng an toàn về vật chất cho người nử , để người nữ có thể an tâm giữ gìn bào thai được khõe mạnh cho đến ngày sinh đẻ , và nuôi nấng đứa trẻ được khõe mạnh và cơ thể được lớn lên theo ngày tháng , cho đến khi các bộ phận và hệ thống cơ thể của đứa bé được hoàn chỉnh , thì lúc đó thần thức của huyền thuật gia sẻ có thể xử dụng dể dàng cơ thể mới nầy với những khả năng cùng kinh nhiệm của mình sẳn có lúc trước .
HẮC NGHI THỨC :

Nghi thức nầy bao gồm việc đem thần thức mạnh khõe của nhà huyền thuật gia nhập vào cơ thể của một người đang sống ; phương pháp nầy chỉ được xử dụng trong một tình huống vô cùng đặt biệt và khẩn thiết mà thôi , vì nó rất nguy hiểm cho cả đôi bên ; vì đôi khi nó sẻ xảy ra trường hợp trong cơ thể của một người có hai luồng năng lực đang chống chọi nhau ; nếu sự nhập vào của linh hồn mới bị thất bại , vì không đẩy được linh hồn củ ra ngoài , thì người bị nhập nầy sẻ bị trở nên điên loạn ; có khi những ký ức của người củ vẩn còn sót lại , thì linh hồn mới sẻ phải xử lý thích hợp với những ký ức củ nầy vậy . Nếu không phải là tay lảo luyện trong môn nầy , thì rất ít nhà huyền thuật gia non tay nghề dám xử dụng phương pháp nầy .
BẠCH NGHI THỨC :

Xuyên qua nghi thức nầy hành giả chỉ có thể tái sinh với một một bào thai mới , bằng cách nhập vào bào thai nào đó bằng một cách ngẩu nhiên , chứ không được tùy ý chọn lựa . Vì lúc đó trong cỏi trung hửu có rất nhiều linh hồn bay chập chờn cũng đang tìm chọn bào thai để nhập vào , tùy theo linh hồn mạnh hay yếu , linh hồn mạnh sẻ tự ý lựa chọn bào thai để nhập vào , linh hồn yếu sẻ bị bào thai có cùng tính khí và đồng bộ rung động , sẻ hút linh hồn vào bào thai nầy mà không cọ sự lựa chọn , trong trường hợp nầy , thì bạn bè , đệ tử ...sẻ không thể tìm ra hành giả qua cơ thể tái sinh được .
Do đó , hành giả khi thực hành nghi thức nầy , trước khi tái sinh hành giả cần quán niệm một hình biểu tượng nào đó , một cách rỏ ràng và mảnh liệt , như một cái bớt son có hình dạng đặc biệt hay dấu ấn đặc biệt nào đó trên vị trí nào đó của cơ thể . Nên khi hành giả đã được tái sinh trong một thân thể mới , thì bạn bè người thân vì được dặn dò trước có thể tìm ra được đứa bé đó là người mới được tái sinh của hành giả ; có những trường hợp , những dấu ấn đặc biệt nầy chỉ được nhìn thấy bởi những người có khả năng thấu thị hay ngoại cảm mà thôi , còn người thường thì không thể nhìn thấy được .
NHỮNG ĐIỀM HAY NHỮNG HIỆN TƯỢNG

TIÊN ĐOÁN TRƯỚC CÁI CHẾT SẺ ĐẾN CHO MỘT NGƯỜI :

Những bậc tu hành Huyền Thuật hay Mật Tông Du Già , Đạo Gia .......nhờ xuyên qua quá trình tu tập , mà đã ấn chứng cùng tích lủy một số kinh nghiệm quí báu ẩn mật ; họ có thể tiên liệu được thời gian sắp chết của một người như sau :

1.- Khi một người trước khi lâm chung , hai ngón tay cái bị xụi lơ , họ không thể dùng sức mà điều khiển hai ngón tay cái cử động , thì nội trong ba ngày người nầy sẻ chết .

2.- Khi một người nhìn hình mình trong gương mà không nhìn thấy đầu của mình , tức cái đầu bị biến mất , hay người nầy nhìn mọi người hay cảnh vật chung quanh không được rỏ ràng , tất cả hình ảnh chung quanh thấy được rất là mờ ảo và thị lực của người nầy dần dần biến mất , người nầy nhất định sẻ bị chết trong vòng 10 ngày .

3.- Khi người bệnh thường nhìn thấy có hai mặt trăng hiện ra trên không trung , thì người nầy sẻ bị chết trong vòng 3 tháng .

4.- Khi một người nào cảm thấy trong cái bóng của họ bị lủng một lổ hỏng đen , thì người nầy sẻ bị chết trong vòng 1 tháng .

5.- Khi người bệnh dùng hai bàn tay bịt chặt lấy hai lổ tai , mà họ không nghe được âm thanh của năng lượng tuần hoàn chu lưu trong thân thể , hay nghe được nhịp tim đập không có qui củ , thì người nầy sẻ bị chết trong vòng 7 ngày .

6.- Khi người bệnh nhìn thấy một cây có cành lá toàn màu vàng kim . thì sẻ bị chết trong vòng 15 ngày .

7.- Khi một người bệnh nhìn không thấy thân dưới của mình hoặc không cảm giác được thân dưới của mình , thì người nầy sẻ chết trong vòng 5 ngày .

8.- Khi một người nằm mộng thấy mình ôm lấy một người đã chết , thì người nầy chỉ có thể sống được trong vòng 6 tháng .

9.- Khi một người cảm nhận thấy mình đang khỏa thân , mà ngồi suy tư với một tâm sự rất phiền nảo , hoặc trong khi nằm mộng mà họ thấy họ đang khóc thương đến rơi nước mắt cho một người đả qua đời ; thì người nầy chỉ còn sống đến 21 ngày là cùng .

10 .- Khi một người , thân thể tự nhiên trở nên mập mạp dị thường trong khoảng thời gian ngắn , thì người nầy sẻ bị chết trong vòng 6 tháng .

11.- Khi một người cảm thấy có một lổ hỏng đen trong mặt trời hay có một lổ hỏng đen trong mặt trăng , thì cái chết chủa người nầy đang kề cận .

12.- Khi người bệnh nhìn không thấy được chót lưởi của mình , thì người nầy chỉ sống thêm được 3 ngày mà thôi .

13.- Khi một người nào thường ngày keo kiệt , tự nhiên vô cớ thay đổi tánh tình , trở nên rất rộng lượng và đại từ đại bi , hay ngược lại . thì người nầy chỉ sống thêm được 6 tháng nữa mà thôi .

14 .- Người bệnh hai tai hoàn toàn mất thính giác , 6 ngày sau chết .

15.- Người bệnh lưởi hoàn toàn mất vị giác , 5 ngày chết .

16.- Người bệnh mắt hoàn toàn mất thị giác , 4 ngày chết .

17 .- Người bệnh mủi hoàn toàn mất khứu giác , 3 ngày chết .

18.- Người bệnh thân thể hoàn toàn mất xúc giác , 2 ngày chết .
Khi một người gần chết thì tâm thân đều bị thoái hóa và tan rả ; sự thoái hoá tan rả nầy chia ra làm ba loại thô chất thu diệt – tiể̀u chất thu diệt và vi tế chất thu diệt :

THỐ CHẤT THU DIỆT :

Là hiện trạng sơ khởi của tử vong , công năng sinh lý bị hoại diệt , nó kéo theo sự biến đổi tâm lý tương ứng ; sự biến hoại tâm thân được chia ra làm 20 hiện tướng :
1.- Sắc uẩn thu diệt : tức nhục thân bị suy yếu , tinh tàn lực tận .
2.- Đại viên cảnh trí thu diệt : Tâm không minh giác , ý thức hôn trầm .
3.- Địa đại thu diệt : Cơ thể gầy đét , khô ốm .
4.- Nhản căn thu diệt : Nhìn không được rỏ ràng , mơ hồ , tròng con mắt không chuyển động được .
5.- Sắc thu diệt : Dung nhan thần khí lu mờ không sáng sủa .
6.- Thọ uẩn thu diệt : Cảm giác từ từ bị mất .
7.- Bình đẳng tánh trí thu diệt : Không thể phân biệt được vui khổ và không vui không khổ .
8.- Thủy đại thu diệt : Mồ hôi và nước miếng khô khan .
9.- Nhỉ căn thu diệt : Thính giác bị mất .
10.- Thanh thu diệt : không nói và nghe được tiếng nói của mình cùng người khác .
11.- Tưởng uẩn thu diệt : Tư tưởng đình chỉ hoạt động .
12.- Diệu quan sát trí thu diệt : Không nhận ra được người thân đang đứng bên cạnh .
13.- Hỏa đại thu diệt : Cơ thể không thể tiêu hóa đồ ăn uống .
14.- Tị căn thu diệt : Hơi thở đứt đoạn , chậm chạp yếu .
15.- Khứu giác thu diệt : Không ngưởi được mùi hôi thơm của thân mình .
16.- Hành uẩn thu diệt : Thân thể không thể cử động .
17.- Thành sở tác trí thu diệt : Không biết tác sự và mong cầu việc gì nửa .
18.- Phong đại thu diệt : 10 loại khí trong thân thể qui tàng về trú xứ của nó .
19.- Thiệt căn thu diệt : Lưởi co rút ngắn lại và trở nên thô và lớn ra .
20.- Vị thu diệt : nếm không biết mùi vị gì nửa .

TIỂU CHẤT THU DIỆT :

Chỉ sự tan ra của 4 nguyên tố trong thân thể là Đất Nước Gió Lửa :
- Đất rút vào nước : Cảm thấy thân thể nặng nề không cử động được , có cảm giác như trời đất bị sụp đổ ; mắt không trông thấy được cảnh vật , khí lực toàn thân từ từ qui tụ về tâm luân ở giữa ngực , thần thức nội thị bên trong thấy được nhiều khóm khói mù trước mặt .

- Nước rút vào lửa : Mồ hôi và nước miếng đều khô ráo , thần thức nội thị bên trông thấy được nhiều ánh sáng nhấp nháy khi sáng khi mờ .

- Lửa rút vào gió : Sức ấm nóng của ngoại thân và chân tay từ từ rút về tim , thần thức nội thị bên trông thấy được ánh sáng mờ mờ như đom đóm .

- Phong rút vào thức : Hơi thở yếu dần và ngưng hẳn , người làm ác cảm thấy bị nhiều đau khổ ; thần thức nội thị bên trông như thấy được ánh đèn trước gió .

VI TẾ CHẤT :

Có 4 tướng :
- Thức thu nhập Hiện : Thấy cảnh như không mây và trăng sáng , gọi là cảnh tướng Hiển Bạch Đạo , còn gọi là Hiện .
- Hiện thu nhập Tăng : Thấy cảnh trời không mây và sáng hồng như mặt trời vừa mọc , gọi là cảnh tướng Hồng Đạo , còn gọi là Tăng .
- Tăng thu nhập Đắc : Thấy cảnh trời không mây và tối âm u như mặt trời vừa lặn , là lúc trí giác đã mất , gọi là cảnh tướng Hắc Âm Đạo , còn gọi là Đắc.
- - Từ vô tri giác phục hồi tri giác : Thấy được cảnh trời quang đảng của buổi sáng , lúc nầy tất cả khí lực của cơ thể tụ về Tâm luân thành minh đ̣iểm sáng chói bằng hạt đậu nành , lúc nầy ý thức xa lìa các loại phân biệt , nhưng thức thần và nguyên thần chưa được tách biệt rỏ ràng , được gọi là cảnh tướng Tử Quang minh , còn gọi là Không .

Bốn tướng Hiện , Tăng , Đắc , Không cộng với bốn tướng từ Đất thu nhập vào Nước , hợp thành Lâm Tử Bát Tướng , tức tám tướng trạng của người đang đi vào cỏi chết .
Sau 3 ngày rưởi , Linh Nhiệt – Khí và Thần Thức hoàn toàn rời khỏi cơ thể .

Con người có thể thấy được cảnh trung ấm như sau :
- Cảnh nằm trong bào thai mẹ .
- Cảnh nằm mộng hay xuất hồn .
- Nhờ tu tập Thiền định mà thấy được cảnh tướng tử vong và cảnh tướng sau khi chết .
- Mạng tận trung hửu , cảnh thấy được sau khi đứt hơi nhưng thần thức còn thấy ánh sáng minh điểm tại tâm luân được một lúc là ánh sáng bản lai diện mục , rồi sau đó thần tức cũng đi luôn và ánh sáng minh điểm nầy cũng tắt đi , cảnh nầy gọi là Thực Tướng Trung Hữu .

Thông qua 8 tướng nầy , Mật Tông lập ra được Mật pháp Trung Ấm Thành Phật .

Khi nào , hành giả biết được những điềm và những hiện tượng bất tường trên , thì đừng nên lo sợ , vì nhờ biết trước ngày mình sắp vảng sinh , hành giả nên vững tâm tiếp tục tu trì để làm mạnh thêm linh tính của mình ; đồng thời an tâm chuẩn bị sắp xếp công việc trần gian , gia đình ......cho hoàn hảo , để chuẩn bị an tâm cho cái chết của mình một cách an lạc và êm đẹp .
Bốn điểm quan trọng
trong khi thực hành pháp Phowa
của Đại Sư Trần Kiện Dân :

- Cần tập trung Minh Điểm và biến nó thành Trí Huệ Minh Điểm :
Trước khi Minh Điểm tập trung , nhờ vào tu tập hành giả đã biết trước rỏ ràng các cảnh tướng của cái chết mà mình sẻ gặp phải và không lo sợ nửa ; Tâm hành giả phải tương hợp với không tính , nhờ đó được an định trong tướng rỏ ràng của Bổn Tôn ; nếu không nhờ các điều trên hành giả sẻ lo sợ cái chết mà tâm sẻ bị loạn động .
- Trung mạch cần phải khai mở để khai thông con đường vãng sanh :
Trung mạch là con đường để thần thức hành giả trước khi chết cần đi qua , nếu trung mạch không thông thì không thể đi đến cảnh giới an lạc của Phật ; Trung mạch đại biểu cho Pháp Thân , thường tịch quang thổ ; có 10 cảnh tướng để biết trung mạch khai mở là :
DẠ NGỦ TƯỚNG : Khói – Ánh Dương – Ánh sáng đom đóm – Ánh đèn – Hư không không có mây che .

NHẬT NGŨ TƯỚNG : Nguyệt – Nhật – Điện quang – Mống cầu vòng –Quang Điểm .

Nếu mười tướng nầy không hiển hiện thì biết là trung mạc chưa thông vậy .

- Cần phải quán Phật A Di Đà trên đỉnh đầu cho thật rỏ ràng :

Nếu quán không được rỏ ràng thì chưa thỉnh được trí huệ Bổn Tôn , nếu lúc nầy minh điểm thần thức xuất ra ngoài thì cũng không vào trong tâm của bổn Tôn được .

- Cần phải biến Khí thành Trí Huệ Khí :

Cần phải tập luyện khí công của chuyển thức , xuyên qua căn bản của Kim Cang Thông mà có được Trí Huệ Khí và Tâm Khí ; nhờ có sự kết hợp của hai khí nầy mà hành giả có thể đưa minh điểm của thần thức xuyên qua trung mạch mà đi vào tâm của Bổn tôn được .
HOÁN THỂ PHÁP
换体法
PHƯƠNG PHÁP THAY HỒN ĐỔI XÁC CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG

Đây là phương pháp đem mạng của mình đổi lấy mạng của người khác , tức đem hồn của hành giả đổi vô một thi thể mới vừa chết , bên Đạo Gia gọi là Tá Thi Hoàn Hồn . Hành giả khi cơ thể có bệnh có thể hoán đổi cơ thể của người không bệnh ; cơ thể già yếu có thể hoán đổi với một cơ thể trẻ trung khõe mạnh . Nhưng Tá Thi Hoàn Hồn có sự khác biệt với Hoán Thể Pháp là người dùng Tá Thi Hoàn Hồn , thì thể xác của người nầy vì lý do nào đó đả bị chết và linh hồn đả bay ra ngoài thành hồn ma ở cỏi trung ấm , nhưng số kiếp chưa phải chết , khi gặp một xác chết nào đó còn khõe mạnh , thì sẻ mượn xác để nhập vào mà sống lại , sau khi được sống lại , người nầy sống cho hết kiếp của mình thì phải chết đi . Còn Hoán Thể Pháp , người nầy vẩn còn sống , vì cơ thể già yếu bệnh hoạn , dùng phương pháp nầy để di hồn của mình trực tiếp đi qua một cơ thể mới khõe mạnh , sau đó dùng cơ thể nầy để tiếp tục làm công việc của mình , mà không cần đi qua cỏi trung ấm .

HOÁN THỂ PHÁP được thực hành qua phương pháp sau đây :
Muốn tập phương pháp nầy , hành giả cần thông qua Tâm Quán Đảnh và Khí Quán Đảnh , hai loại quán đảnh nầy rất bí mật , người thường không thể thụ đắc .
Đầu tiên , hành giả phải chọn một nơi thật tinh khiết ; đồng thời hành giả cần người phụ tá lo lắng sự an toàn và sinh hoạt cá nhân cho mình , trong khi và sau khi hành giả tiến hành hoán thể pháp ; nếu trong lúc hoán thể có ai làm kinh động đến hành giả thì sinh mạng của hành giả sẻ gặp nguy hiểm .
Kế đến hành giả dùng than đen vẻ một mạn trà , giửa mạn trà có đặt một phiến đá trên đó có khắc một hình chử OM bằng tiếng Phạn .
Mọi việc chuẩn bị xong , hành giả bắt đầu nhắm mắt và quán tưởng mình trở thành trở thành Bổn Tôn , sau đó quán có một chử OM màu trắng chiếu sáng trong tâm luân của mình , hành giả vận khí trong lúc thở ra , tưởng tượng hình chủng tử tự nầy đi trở lên trong trung mạch và xuất ra từ đỉnh đầu , hành giả vận khí tưởng tượng đem chử OM nầy nhập vào chử OM đã được khắc trên phiến đá đặt bên ngoài luân của mình , trong lúc nầy hành giả không được hít hơi vào mà chỉ luôn thở ra mà thôi , nếu hết hơi thì hành giả lúc đó mới hít một hơi ngắn , xong tiếp tục thở ra và trong tâm tưởng tượng chử OM đả được hòa tan nhập làm một với chử OM trên phiến đá , sau đó chử OM nầy chiếu sáng khắp nơi ; cứ thế tiếp tục luyện tập lập lại như thế cho thuần thục , khi thở ra thì chử OM sẻ hòa tan nhập làm một vào chử OM trên phiến đá .
Khi tập đến thuần thục , lúc nào muốn hoán thể đổi xác , hành giả tìm một tử thi vừa mới chết , không bệnh hoạn và khõe mạnh , sau khi gội rửa cho sạch sẻ , và trang phục cho được chỉnh tề trang nghiêm ; Xong đặt xác chết nầy trước mặt hành giả trong đàn tràng màu đen , kế đến hành giả tưởng tượng có một chử OM màu trắng sáng chói bằng tiếng Phạn hiện ra một trong tâm luân của mình và một trong tâm luân của tử thi sau đó hành giả vận khí , trong lúc thở ra đem chủng tự OM nầy đi lên theo trung mạch mà xuất ra ngoài từ đỉnh đầu , mà đi vào mủi của tử thi , kế đến chử OM nầy đi dần xuống tâm luân của tử thi và nhập lại làm một với chử OM của tử thi , đồng thời chiếu sáng vô ngần ; hành giả cứ tiếp tục tiến hành lập lại nhiều lần như thế ; tử thi sẻ từ từ tụ khí và dần dần cử động cuối cùng sẻ sống trở lại ; đồng thời lúc nầy thân xác củ của hành giả sẻ bị chết đi .
Hoặc , hành giả tưởng tượng có một chử OM màu trắng sáng chói bằng tiếng Phạn hiện ra một trong tâm luân của mình và một trong tâm luân của tử thi , sau đó hành giả kề miệng của mình và miệng của tử thi tiếp giáp với nhau , xong hành giả vận khí trong lúc thở ra đem chủng tự OM nầy đi ra từ lổ mủi phải của mình mà đi chui vào lổ mủi trái của tử thi , sau đó quán tưởng chử OM nầy đi dần xuống tâm luân của tử thi và nhập lại làm một với chử OM của tử thi , đồng thời chiếu sáng vô ngần ; hành giả cứ tiếp tục tiến hành lập lại nhiều lần như thế ; tử thi sẻ từ từ tụ khí và dần dần cử động cuối cùng sẻ sống trở lại ; đồng thời lúc nầy thân xác củ của hành giả sẻ bị chết đi .
Vì đã chuẩn bị trước người phụ tá sẻ đem thức ăn cho hành giả trong thể xác mới ăn uống ; trong vòng mười lăm ngày hành giả trong thân xác mới không được ra ngoài gặp người khác , cơ thể mới của hành giả từ từ sẻ khôi phục lại sức lực bình thường . còn thể xác củ đả chết của hành giả đem đi chôn cất một cách đàng hoàng .
ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP
夺舍秘法
CỦA PHÁI CÁT CỬ – PHÁI ÁO TRẮNG – MẬT TÔNG TÂY TẠNG .

ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP còn gọi là PHOWA TRỌNG GIÁC tức là Tái Thức Giác Thần Thức của mình sau khi chuyển di Linh Hồn của mình đi sang một cơ thể khác .
Bất kể khoa học kỷ thuật tiến bộ đến mức nào đi nửa , đối với sự chết , cũng còn là một bí mật , chưa có ai có thể biết được bí mật nầy . Do đó , bất cứ ai sống trên cỏi đời nầy , đến một lúc nào đó , tất cả đều phải chết . Nếu chúng ta dùng kiến thức để trắc định , để biết lúc nào ta sẻ chết ? Chết vì nguyên do gì ? Sau khi chết đi về đâu ? tất cả những vấn đề nầy đều vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta . Vì thế con người ai cũng lo sợ không biết cái chết đến với mình vào lúc nào , và từ đó sinh ra khổ nảo . Mặt khác , vì con người không ai tránh được cái chết , nên có người cho cái chết là một qui luật tự nhiên , khi cái chết đến thì phải chịu mà thôi .
Nhưng cái chết đối với tôn giáo thì không phải như thế , vì tôn giáo nào cũng có phương pháp liểu sanh thoát tử để giải thoát con người khỏi cái chết , tức giải quyết vấn đề sanh tử , đương nhiên là có giải pháp cho vấn đề nầy . Nhưng thực tế nói đến vấn đề giải thoát không phải là dể dàng đâu . Như một Cao Tăng đang tu hành , trong lúc chưa được đắc đạo và chưa được thành tựu công quả , một mai tử thần đến gọi , vì một lý do gì đó cái chết bất ngờ xảy ra cho vị nầy ; thì bình sanh sở học cùng đạo hạnh của vị nầy sẻ bay theo mây khói . Hơn nửa con người trong khi chết , thần thức con người mơ hồ , không có được tự chủ , thì sự đau khổ con người to lớn biết chừng nào . Đối với sự tồn tại của linh hồn có hay không hay , và tương lai của nó ra sau , tạm thời chúng ta không bàn đến ; do đó cái khổ trước mắt là cái chết , thì chúng ta giải quyết ra sao ? Nhưng Mật Tông tây Tạng từ lâu đả có phương pháp để giải quyết vấn đề nầy , đó là phương pháp ĐOẠT XẢ .
Phương pháp nầy do vị thầy Naropa và phái Cát Cử truyền thừa .
Đoạt Xả Bí Pháp đại loại có năm loại thành tựu : 1.- Có được Pháp Thân Thành Tựu . 2.- Có được Báo Thân Thành Tựu . 3.- Có được Hoá Thân Thành Tựu .4.- Do 3 loại Tưởng .5.- Nhờ một vị đạo hạnh cao , dùng tâm đại bi và pháp lực để thông qua nghi thức Pohowa Đắc Ba mà chuyển linh hồn của người chết được vảng sanh cực lạc .
Ba loại thành tựu trước đều có giảng dạy trong Thượng Thiên Mật Bộ ; loại thành tựu chót là nhờ người khác giúp mình vảng sanh ; còn loại thành tựu thứ tư là Tam Chủng Tưởng , mới thật là phương pháp Đoạt Xả chính tông , tức là ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP vậy.
Sự tu luyện ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP có liên quan mật thiết với quan niệm về nhân thể của Mật Tông Tây Tạng như sau :
Thân con người do hai nguyên tố hợp thành , đó là linh hồn và nhục thể , nói cách khác là do sự tổ hợp của thức và uẩn , hai nguyên tố nầy hợp thành nhân duyên mà tác động lẩn nhau . Khi còn là phàm nhân thì Uẩn là nhục thân làm chủ tâm linh là Thức , nhờ xuyên qua tu hành ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP , con người chuyển hóa phần tâm linh , lúc nầy Thần thức , tuệ giác con người sẻ là chủ nhân làm chủ xác thân và có toàn quyền sai khiến nó .
Mặt khác , xác thân vật chất của con người là do Đất , Nước , Gió , Lửa , Tứ Đại hợp thành ; mà Gió tức là Khí là nguyên tố quan trọng thống lảnh các nguyên tố còn lại ; Do đó Tạng Mật dùng phương pháp nội quán để có thể thấy được tác dụng của Khí , nhờ Khí mà con người được sống và tồn tại , khi Khí hết thì con người sẻ bị chết . Khi con người chết thì khí dần dần thu nhiếp lại , tay chân mình mẩy từ từ lạnh đi , cuối cùng khí ấm trong tim bị từ từ mất đi thì toàn thân lạnh toát , và con người đả chết ; Khi khí và hô hấp của con người thu nhíp lại , thì Địa ,Thủy , Hỏa , Phong sẻ bị phân giải .
Do đó , một điểm Khí ấm cuối cùng còn lại trong tim của một người sắp chết , là một điểm rất quan trọng cho người luyện ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP , vì lúc nầy ta có thể dùng phương pháp ĐOẠT XẢ để đem điểm khí ấm nầy hợp cùng thần thức của ta mà chuyển di sang cơ thể khác .
ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP cho rằng Tâm của con người là một vật biến hoá vô cùng , do đó ta cần dùng phương pháp nội quán Minh Điểm để nhiếp Tâm vào một điểm . Tạng Mật nhận thấy rằng , thân con người là do Khí , Mạch và Minh Điểm ( bao gồm tâm ) hợp thành , mà Minh Điểm là tinh túy của đại lạc , nói cách khác là một loại chủng tử , nó có trong các đường kinh mạch của cơ thể , mà Khí thì nhờ thông qua kinh mạch để vận hành , do đó Khí , Mạch và Tâm ( Minh Điểm ) có một sự tương hợp , liên quan mật thiết và khắc chế lẩn nhau , nhờ sự tương hợp , liên quan mật thiết và khắc chế lẩn nhau của Khí , Mạch , Minh Điểm nầy mà ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP đã hình thành thông qua ba loại quán tường của ba vật nầy . Nói một cách dể hiểu là ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP đả vận dụng Tâm và Khí của mình , đi xuyên qua các đường kinh mạch trong cơ thể , điển hình là trung mạch , để từ đó chuyển di thần thức của mình đến nơi mà mình muốn đến .
Như vậy những loại mạch đạo nầy là gì ?
ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP nhận thấy rằng , bất cứ hành giả nào đả từng thọ nhận nghi thức quán đảnh củng đều đang ở một giai đoạn tu tập nào đó của bí pháp tức tập Khí và Tâm của mình vậy , nhờ sự tu tập nầy mà hành giả có khả năng chuyển di thần thức của mình đến một cảnh giới ánh sáng , lúc nầy thần thức của mình như là một linh thể , là một hóa thân tồn tại của mình vậy .
Khi hành giả đả thành công và nắm vửng bí pháp nầy , họ có thể xuyên qua trung mạch mà đi lên mở hai miếng sọ trên đầu mà di hồn qua một cơ thể khõe mạnh khác , còn nếu mở không được đỉnh đầu , thì họ phải đi qua các cửa ngỏ khác như miệng , giang môn và bộ phận truyền sinh , mà những nơi nầy không ai muốn cả .
ĐOẠT XẢ BÍ PHÁP là như người thường không có nhà cửa để ở , người nầy tìm cách để có nơi cư ngụ , thì linh hồn cũng như vậy , linh hồn cũng có phương pháp để tìm một nhục thân mà vào ở vậy . Đoạt tức là dùng sức mạnh để chiếm lấy , Xả tức là nơi cư ngụ , nhà cửa phòng ốc , Xả ở đây có ý nói là nhục thân vậy . Đoạt Xả tức là chọn trước một bào thai nào hoặc khi đứa bé nầy mới vừa sanh , thì hành giả sẻ nhập vào đó để chuyển thế , nếu bào thai đó đả có linh hồn nào đó vào ngụ trước , thì hành giả sẻ dùng pháp lực của mình để mời linh hồn nầy đi ra và hành giả nhập vào để trú ngụ chờ tái sanh .
Phương pháp nầy theo Đạo Gia của thuật tu tiên , thì hành giả chỉ tu đến mức luyện được hình thành Âm Thần , và cần chọn một thể xác để tiếp tục công việc tại thế gian ; còn nếu hành giả đả luyện được Dương Thần rồi thì có thể phân thân hiển hiện ở cỏi phàm nhân để cứu nhân độ thế , mà hành giả có thể đi đếm được bất cứ cỏi nào cũng được và được trường sanh bất tử cùng trời đất . Khi hiện ra ở dương trần thì Dương Thần có hình mà không có bóng , còn Âm Thần thì có bóng mà không có hình vậy .
TRƯỜNG THỌ VÀ HỒNG HÓA
CỦA TẠNG MẬT .
长 寿 & 虹化

Khí công của Mật Tông Tây Tạng , có phái áo đỏ là phái Ninh Mả , có truyền dạy phương pháp thượng thừa là Đại Viên Mản Tinh Tủy . Khi hành giả nào đả tập thành công phương pháp nầy thì thọ mạng được tăng cao và khi lâm chung thân thể của người nầy sẻ biến thành một vầng hào quang sáng chói mà bay vào không gian vô tận .
Hành giả tu tập phương pháp Đại Viên Mản nầy , thường ngày trong khi tập luyện thường thu hút lấy một khối lượng lớn năng lực cùng quang tử của mặt trời mà lưu giử trong cơ thể , thông qua đó làm mạnh đi trường sinh hóa của cơ thể , làm biến đổi và làm chậm đi đồng hồ sinh hóa của cơ thể , nhờ đó mà hành giả được trường thọ , cải lảo hoàn đồng vậy .
Hiện tượng trong khi hồng hóa :
Trong lúc hành giả lâm chung , ngồi tỉnh tọa thì lúc đó cơ thể không ngừng phát ra ánh sáng rực rở , trong lúc đó cơ thể dần dần rút nhỏ lại ,cho đến khi cơ thể hoàn toàn biến mất chỉ còn để lại tóc và móng tay ; có hành giả khác thì cơ thể thu rút nhỏ lại cở hai ba thước tàu ; lúc đó trên không có vầng hào quang bảy màu chiếu sáng hay có một vầng hào quang sáng chói phóng vào không trung . Có hành giả khi lâm chung , cơ thể phát ra âm thanh và ánh sáng , mặt đất rung chuyển , sau cùng còn để lại linh cốt và xá lợi . Hiện tượng nầy có thật trong lịch sử Mật Tạng của những cao đồ Mật Tạng để lại .
Tại sao hiện tượng hồng hóa , khiến cơ thể phát ra ánh sáng , trước tiên ta cần tìm hiểu ánh sáng là gì ?
Vật lý học hiện đại chứng minh , ánh sáng là sự chuyển hóa của điện trường , khi ta đem một vật nung nóng tới một nhiệt độ cao , thì tất cả đều phát ra ánh sáng , vì bản chất của vật chất được cấu tạo bởi những hạt nguyên tử , khi bị đốt nóng thì sự vận hành của những hạt nguyên tử nầy được gia tốc và từ đó phát ra một trường quang tử , mà phát sáng ra mọi nơi .
Còn về phương diện hóa học mà nói , thì tế bào của cơ thể đại đa số do 4 chất Carbon – Hydrogen – Oxygen – Nitrogen và một số vi lượng nguyên tố khác cấu thành , dưới sự tác dụng sinh hóa của các nguyên tố nầy mà tạo ra sức ấm và ánh sáng vi tế cho cơ thể và ánh sáng vi tế bình thường nầy , đã được Kirlian phám phá , đó là hào quang của con người .
Thông qua quá trình dai dẳng tu tập pháp Đại Viên Mản của hành giả , họ đã thu nhiếp từ mặt trời và tích tụ được một khối năng lượng lớn prana trong thân thể , từ lượng sẻ biến thành một loại vật chất , sẳn sàng được phát động do lửa của tâm lực của hành giả đốt cháy ; thì lúc đó số năng lượng vỉ đại nầy sẻ được bộc phát , nó sẻ tiêu thụ đốt cháy những nguyên tố và tế bào của cơ thể , từ đó mà phát quang tỏa chiếu mọi nơi . Lúc đó trường năng lực của sinh vật đả hợp nhất cùng mật mả của tâm thức , hợp thành một trường sinh thái của của cơ thể ; trường năng lượng sinh thái của cơ thể nầy rất lớn , Mật Tông gọi trường nầy là Vô Lượng Thọ , Vô Lượng Quang .....chiếu sáng khắp vũ trụ .
Như vậy , nhục thân của hành giả đả được phân giải ra thành năng lượng để trở về kho dự trử của vũ trụ và tâm hành giả đã vảng sanh rồi vậy .
ĐẠI VIÊN MẢN TU TRÌ PHÁP YẾU

Tạng Mật Vô Thượng Du Già Đại Viên Tu Trì Pháp Yếu thuộc bộ quán đảnh thứ ba của Vô Thượng Du Già Bí Mật Bộ Đại Pháp , là pháp môn độc tôn và cao nhất của Phái áo đỏ Ninh Mả .
Công pháp chủ yếy gồm có hai bộ : Triệt Khuyết và Thoát Cát .
Triệt Khuyết là tu Định và Thoát Cát là tu về ánh sáng ; thông qua pháp môn nầy trường năng lược của cơ thể và trường năng lực của vũ trụ được trao đổi ; hành giả có thể điều động trường năng lực của vũ trụ , khiến cho nội khí trong nội thân được thăng bằng . Sau khi hành giả tu thành công Bảo Bình Khí tiếp đến tu Đại Viên Mản Pháp để đến khi lâm chung , có thể từ trong định , thân của hành giả không ngừng phát ra ánh sáng , thân thể hài cốt từ từ rút nhỏ lại cho đến biến mất , chỉ còn lại tóc và móng tay , trong khi đó trên không trung có một vầng hồng quang chói lọi chiếu sáng ....
PHƯƠNG PHÁP TẬP

TRIỆT KHUYẾT – THOÁT CÁT

TÂM TỦY ĐẠI VIÊN MẢN BÍ TRUYỀN .
大圆满

Pháp môn cao nhất của phái Ninh Mả Áo Đỏ là ĐẠI VIÊN MẢN PHÁP ;
Pháp môn cao nhất của phái Cát Cử Áo Trắng là ĐẠI THỦ ẤN .
Là hai pháp môn quí nhất của Mật Tông Tây Tạng , tinh túy của hai pháp báo nầy là xử dụng Khí , Mạch , Minh Điểm và Tâm pháp để thành tựu .
Tinh túy của phái Ninh Mả , quan trọng xử dụng Minh Điểm trong khi thực hành pháp Tâm Tủy Đại Viên Mản ; trong pháp nầy có hai bước là Triệt Khuyết và Thoát Cát .
Triệt khuyết là Lập Đoạn , thuộc về tu tập Định Lực cho vững vàng .
Thoát Cát là Tiệm Siêu , thuộc về tu tập Ánh Sáng Huệ Quang .
Hành giả khi xem Ánh Sáng của Thoát Cát , thì cần có căn bản Định Lực của Triệt Khuyết ; có được như thế , thì trong thiền định hành giả mới mong thấy được sự vi diệu của thế giới vi quán , mới mong thấy được những loại minh điểm khác nhau trong vũ trụ .
Sự tu Định trong Triệt Khuyết , trong lúc thiền định tự nhiên nhi nhiên giử tâm bất loạn , không khống chế mà cũng không buông thả tâm , mà giử tâm được tự nhiên , thấy được tự tánh quang minh , không tính như hư không , như trời xanh không có mây , thiên không trong sáng như gương ; đạt đến Minh Không Bất Nhị Định Trú , tức đã vượt qua 3 thời , quá khứ , hiện tại và vị lai và Tự Tính xuất hiện vậy .
Sự tu tập Ánh Sáng trong Thoát Cát , nhờ sự thành đạt Định Lực của Triệt Khuyết , hành giả đả mở được cửa sổ của linh hồn , mà trông thấy được Minh Điểm của hư không .
Hành giả thấy được trong hư không vủ trụ có nhiều loại Minh Điểm khác nhau , chúng di chuyển chạy tới chạy lui , trên dưới , trái , phải ....một cách tự tại .
Trong hư không cũng có Bất Động Minh Điểm hình cầu và bên trong có hình vòng tròn , còn những loại Minh Điểm Di Động thì đa hình dạng trạng , như chim bay lượn trên không ...
Khi định lực của hành giả còn yếu thì thấy minh điểm rất nhỏ và ẩn hiện vô thường , nhưng khi định lực đả cao , thì thấy minh điểm từ từ biến ra to lớn ; có những loại minh điểm có màu sắc cầu vòng , nhưng đa số trung tâm của minh điểm đa số là màu trắng , rất ít có màu xanh lá cây ; khi minh điểm có mật độ cao , nó chiếu sáng như bóng đèn điện sáng chói .
Trong vũ trụ vĩ mô luôn có sự tồn tại của minh điểm , những loại minh điểm nầy gọi là Ngoại Minh Điểm ; nhưng trong vũ trụ vi mô là thân thể của con người cũng có minh điểm , còn gọi là Nội Minh Điểm .
Cơ thể con người vốn là một hệ thống khai phóng , luôn có sự trao đổi thông tin cùng năng lượng cùng ngoại giới ; nhưng bình thường bị thất tình lục dục khống chế mất đi thăng bằng , mà thường làm tiêu hao đi năng lượng của hệ thống thần kinh , làm cho ánh sáng minh điểm trong thân thể bị quấy nhiểu , bị tiêu hao mà trở nên lu mờ .
Nếu hành giả biết xử dụng phương pháp Triệt Khuyết và Thoát Cát của Mật Tông mà tu luyện , để hệ thống thần kinh của mình thu nhiếp lấy năng lượng của vủ trụ và tránh làm tiêu hao năng lượng của minh điểm , thì nội minh điểm sẻ sáng chói trở lại , hình thành một trường nội sinh thái quang lượng tử , vận hành chu lưu trong trung mạch . Nếu tần số dao động của trường nội sinh thái quang lượng tử minh điểm nầy , đồng bộ với trường sinh thái lượng tử của vũ trụ và nhờ huyệt Phạm Thiên ở đỉnh đầu đả mở , thì trường sinh thái lượng tử của vũ trụ sẻ đi vào đỉnh đầu của hành giả , hợp với trường nội sinh thái quang lượng tử trong thân hành giả sẻ cùng rung động làm mạnh và sáng thêm nội minh điểm và thông qua đó hành giả sẻ khai mở được những khả năng tiềm ẩn siêu nhiên của mình .
Ngoại Minh Điểm của vũ trụ sẻ nhờ tâm lực của hành giả mà thu nhiếp vào thân và ngược lại , đây là công pháp cao cấp của Mật Tông .
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:56 am

Trung mạch trong thân người chủ về minh điểm , nơi đây là cầu kiểm soát sinh mạng lực của con người ; con người nhờ thông qua cơ cấu nầy mà có thể từ đó phát năng lượng ra không gian cũng như ngược lại , và nhờ thế nội ngoại minh điểm được hợp nhất , tương nhiếp , tương quan . Nhờ sự khai mở và thường thu nhiếp được năng lượng vũ trụ về tích tụ ở trong cơ thể , nên năng lượng dự trử trong cơ thể trở nên dồi giàu , dùng mải không hết ; từ đó giúp cơ thể được trường thọ , làm khai phát trí huệ và quang minh và cuối cùng hóa thân thành Hồng Quang Trí Tuệ Thể , Ngũ Trí Quang Minh , để khi lâm chung có thể Hồng Hóa mà biến thành một đạo ánh quang màu hồng bay vào vủ trụ vậy .
Cách luyện tập :
Địa điểm và thời gian :
Tập Triệt Khuyết , bốn mùa tập khác nhau ; mổi buổi sáng hừng đông khi mặt trời vừa ló dạng ; hoặc mổi buổi chiều khi mặt trời sắp lặn .
Hành giả cần mặc quần áo rộng thoải mái , xong lựa một nơi yên tịnh , có thể nhìn thấy mặt trời , hành giả có thể đứng hoặc ngồi ; nếu đứng thì hai chân dang ra bằng vai , sau khi đả hít thở một hơi dài thư thả và chậm chạp thoải mái để tâm được an định ; kế đến hành giả mở hai mặt nhìn mặt trời . Nếu kết hợp với Bảo Bình Khí Pháp , hành giả có thể ngồi thế Kim Cang Toạ , Tượng Toạ , Sư Tử Toạ , Tiên Nhân Tọa .....Khi ngồi nên mặc quần cho rộng rải , để cho khí huyết được lưu thông .
BẢO BÌNH HỢP TU PHÁP
宝瓶气
Bảo Bình pháp còn gọi nôm na là Bình Trà Khí Công . Đầu tiên hành giả phải quán tứ đại giai không , nhất tâm bất loạn , hít thở bằng mủi qua 4 giai đoạn như sau :
1.- Dẩn Tức : Hành giả tưởng tượng trước mặt mình cách xa 16 ngón tay , có một khối linh khí màu trắng sáng đang bay trước mặt , hành giả dùng mủi để hít linh khí nầy vào trong phổi và đưa xuống phía dưới của phổi , hành giả chỉ nên hít vào khoảng 80 % hơi thở mà thôi , để dành 20 % hơi hít vào cho giai đoạn thứ ba ; lúc nầy hành giả thót ép bụng lại , đưa hoành cách mô lên trên , đồng thời nhíu giang môn lại ; hành giả dùng ý , trên thì ép luồng khí nầy xuống , dưới thì nhíu giang môn đẩy luồng khí nầy lên , hai phía ép luồng khí nầy tụ lại và giao hội tại đan điền tức cách trên rún 3 ngón tay , và từ đó vào trong 1 phần ba ngang lưng , lúc nầy như bình đả đựng đầy nước vậy . 2.- Mản Tức : Khi cảm thấy khí trong bình đả đầy rồi thì hành giả tưởng tượng khí từ trong bình tỏa ra khắp toàn thân , và tràn ngập các lổ chân lông . 3.- Quân Tức : Sau khi khí đả bảo hòa , hành giả tiếp tục hít vào vài hơi ngắn nửa , để cho khí bên phải và trái của phổi và toàn thân được đong đầy và cân bằng . 4.- Xạ Tức : Hành giả nín hơi giữ khí nầy trong người , cho đến khi không giử được nửa , thì lúc nầy hành giả hảy thở ra bằng hai lổ mủi , lúc đầu thở ấm và nhè nhè , dần dần thở mạnh bộc phát , tống khí bay ra như muôn tên rời khỏi cung , lúc đó lổ chân lông của toàn thân cũng như khí trong bình được tuôn xổ ra một lượt vậy ; tuy nhiên hành giả cần giử lại một số lượng khí căn bản ở lại trong cơ thể để khỏi bị chóng mặt và̀ tránh nguy hiểm ; tức là đừng thở ra hết vậy , chỉ thở ra tám chín chục phần trăm khí là được rồi , còn giử lại hai mươi phần trăm để làm chổ dựa cho thần thức .
Vì việc xử dụng khí trong pháp môn nầy rất mảnh liệt ; do đó hành giả đừng quá cố gắng , chỉ dụng công vừa với sức mình , dành cho thanh niên và đã có căn bản , thích hợp những người có cơ thể khõe mạnh tập luyện ; không thích hợp cho người già , người có bệnh , đàn bà có thai hay đang cho con bú đều không thích hợp , và không nên tập .
Nên tập nơi quang đảng và có nhiều không khí trong lành , tránh những nơi có khói , bụi , ồn ào , mưa gió , nguyệt hay nhựt thực không nên tập , và khi tập không được dùng miệng để hít thở mà chỉ được dùng mủi để hít thở .
Pháp môn nầy chỉ thích hợp cho những hành giả đả tập thành công pháp môn Kim Cang Sổ Tức Pháp . hành giả chuyên tu Bảo Bình Khí , tiếp đến tập đến Kim Cang Mẩu Hợi Quyền Pháp , để Bình Khí được đầy và kiên cố thêm ; nếu muốn tăng thêm hiệu năng của Bảo Bình Khí , có thể tập thêm Kim Cang Thông .
Mổi lần tập chỉ có thể tập một lần để dẩn khí , hít cho đầy khí , thăng bằng khí và xạ khí . Mổi ngày tập nhiều nhất là hai lần ; nếu tập nhiều sẻ chảy máu mủi , đau mắt , viêm cổ họng , nứu răng ra máu v..v...
Không nên tập Bảo Bình Khí vào giờ Tí và giờ Ngọ , cũng như đừng tập khi ăn quá no hay khi đói quá cũng không tập được ; ngoài ra là giờ nào cũng tập được ; trước khi tập tập, hành giả hảy thở hơi ra , lấy tay kê trước hai lổ mủi xem hai lổ mủi của mình , thì lổ mủi nào thở hơi ra nhiều , nếu thấy lổ mủi mặt có hơi thoát ra ngoài nhiều hơn lổ mủi trái thì đừng tập ; còn nếu hơi thở thoát ra từ lổ mủi trái thì có thể tập , và nếu hơi thở cùng lúc thoát đều ra hai lổ mủi , thì là lúc tập tốt nhất vậy .
Bảo Bình Khí có thể đi đứng nằm ngồi đều tập được , khi hành giả tập được một thời gian dài ; ở đang điền có một khối sáng màu đỏ xuất hiện , thì hành giả có thể dùng ý niệm tưởng tưởng mà đưa ánh sáng nầy theo trung mạch mà đưa lên trụ ở đầu . cuối cùng xông ra khỏi đầu , hiện thành một vòng hồng quang , vòng hồng quang nầy do nội thân minh điểm cấu thành vậy .
TRIỆT KHUYẾT PHÁP
Hành giả dùng ý niệm mang ba linh ngữ có ba màu khác nhau : chử OM màu Trắng – Chữ A màu Đỏ – Chử Hum màu Lam ; ba ánh sáng khác màu của ba linh ngữ sẻ mang trường năng lượng quang tử của vũ trụ đi vào bộ đầu , sau đó tỏa ra khắp cơ thể để làm mạnh thêm trường năng lượng của cơ thể .
Hành giả trước khi tu tập , cần phải tịnh tâm , điều thân ; đầu tiên hành giả cần tu tập Bảo Bình Khí Pháp trước , để có được một định lực nhất định nào đó , sau đó mới nhìn ánh sáng mặt trời , nhưng thời gian nhìn mặt trời phải ngắn , không được nhìn lâu .
Mặt hành giả hướng về hướng mặt trời mới mọc ở phương Đông vào buổi sáng . Đầu tiên hành giả cần dùng thần nhìn ra trong không trung có nhiều điểm sáng tròn nhấp nháy muôn màu , đó là ngoại minh điểm ; sau khi thấy được ngoại minh điểm , tiếp tục hành giả tưởng tượng trên đỉnh đầu của mình có một chử OM bằng tiếng Phạn , màu trắng sáng chói , từ đỉnh đầu của hành giả bay ra , hành giả dùng ý niệm đưa chử OM nầy bay lên không trung cùng tất cả ngoại minh điểm nhập lại thành một thể , saun đó hành giả dùng ý niệm mang linh ngử OM nầy trở về bộ đầu , và hành giả cứ thế mà thực tập nhiều lần . Những ngày trời mưa hay có tuyết rơi không cần tập , mổi ngày tập hai lần , tổng cộng là 60 lần trong một tháng , đó là bài tập cho tháng thứ nhất . Bắt đầu tháng thứ hai , hành giả vẩn vận khí nhìn mặt trời , cho đến lúc trong không trung xuất hiện một vòng tròn sáng , hành giả dùng ý niệm tưởng tượng ở mi tâm của mình có một linh tự A màu đỏ phát quang phóng xuất lên không trung , cùng vòng tròn ngoại minh điểm hợp lại thành một , sau đó hành giả thâu linh ngử A nầy trở về mi tâm của mình . Tháng thứ ba , cũng như phương pháp trước , nhưng lần nầy hành giả quán linh ngử HUM bằng chử Phạn màu xanh lá cây , từ chót mủi hành giả bay ra để hợp nhất với vòng tròn sáng của ngoại minh điểm trong không trung , xong hành giả thu linh ngử nầy trở về mủi của mình .
Chú ý :
1.- Hành giả cần luyện tập Bảo Bình Khí và Kim Cương Thông để có một kết quả nhất định nào đó , thì mới có thể tập pháp nầy . 2.- Khi luyện pháp nầy hành giả nên niệm hơn một ngàn lần OM A HUM theo pháp Kim Cương Thông . 3.- Trong thời gian ba tháng luyện tập , sáng tối tập một lần , cần tập đủ 60 lần , phải trừ đi những ngày trời mưa hay những ngày u ám không có ánh mặt trời thì đừng tập , và phải trừ đi những ngày nầy và tập bù lại vào những ngày khác cho đủ số .4.- Trong khi tập , hành giả cần chú ý tăng cường làm định lực được mạnh thêm , để duy trì tâm quán minh điểm được chiếu sáng liên tục không bị gián đoạn , nội ngoại tâm thân không có sự khác biệt , để từ đó có thể hòa nhập vào trường thông tin của vũ trụ .
THOÁT CÁT PHÁP

Hành giả tập đứng ngồi cũng được , nếu ngồi thì dùng Kim Cang Tọa , Sư Tử Tọa , Tượng Tọa , Tiên nhân Tọa cũng được . Thời gian không nhất định .
Mặt hướng về phía mặt trời , với một góc trệch 30 độ , tức nhìn vào khoảng không trung cách mặt trời với góc 30 độ mà tập , mắt không nên nhìn thẳng vào mặt trời sẻ làm hại mắt .
Phương pháp Thoát Cát chủ yếu tập quán về Minh Điểm ; Thoát Cát tức là Minh Điểm vậy ; Phương pháp nầy chia ra làm ba bước tu tập , tập xong bước đầu , xong mới tập bước kế tiếp được .
Bước tập thứ nhất :
Mắt nhìn lên không trung nơi trời quang đảng xanh trong , nhìn không định vị , một lúc sao lấy thần mà hội , sẻ thấy nhiều điểm trắng sáng nhấp nháy di động trước mắt đó là sinh lực khí prana hay còn gọi là minh điểm ; Trước quán vi minh điểm , những minh điểm đang di động , sau đó mới quán đại minh điểm và bất động minh điểm , những minh điểm nầy có màu sắc chiếu sáng như ngọc quí , sau chót có thể quán thấy vòng ánh sáng năm màu chói lọi của minh điểm ; đây chỉ là trường bức xạ năng lượng của vũ trụ .
Bước tập thứ nhì :
Quán minh điểm trong những ngày không có ánh sáng mặt trời .
Bước tập thứ ba :
Tập quán minh điểm dưới ánh đèn hay bóng đèn ; hoặc quán minh điểm vào ban đêm hay những đêm có trăng , hành giả sẻ nhìn thấy minh điểm như thấy ánh đèn trên mặt nước vậy .
Tu tập phương pháp nầy cần gia trì định lực cùng phối hợp với Bảo Bình Khí và vân khí để quán minh điểm ; khi thành công hành giả có thể nhìn thấy những điều vi diệu của thế giới vỉ mô và vi mô.

Trong khi hành giả tu tập pháp môn Bảo Bình Khí , thì trong trung mạch có xuất hiện một quả cầu màu đỏ sáng , đấy là Hồng Bồ Đề Tâm của hành giả ; lúc nầy hành giả dùng tâm niệm đem ánh sáng nầy theo trung mạch từ từ đi lên đỉnh đầu và xuất lên không trung , tiếp đến hành giả dùng tâm niệm khiến quả cầu minh điểm nầy lớn dần lên trở thành một vòng tròn ánh sáng hồng chói lọi trên không ; trong lúc quán Thoát Cát hành giả đả thấy được vòng tròn năm màu của trường bức xạ năng lượng vũ trụ , thì lúc nầy hành giả dùng tâm niệm đem vòng hồng quang minh điểm của mình nhập vào vòng ánh sáng ngủ quang của vủ trụ , hợp thành làm một , và chiếu sáng vô cùng . kế đến hành giả dùng tâm niệm đem vòng ánh sáng năm màu minh điểm của trường bức xạ năng lượng vũ trụ nầy thu về bộ đầu của mình . Những cách tập trên được gọi Đại Viên Mản , với mục đích làm cho thân thể của hành giả có thể thu nạp và tích lủy lấy một số lớn trường bức xạ năng lượng vũ trụ đồng thời làm hoà hợp , thâm nhập tâm thân của hành giả cùng vũ trụ làm một , từ đó làm hiển hiện ra bản tính quang minh và tiềm năng của hành giả , để có trí huệ mà đạt đến cảnh giới Đại Viên Mản vậy .
Trong lịch sử tu tập Mật Tông , đã có nhiều hành giả tu tập Đại Viên Mản được thành tựu , khi lâm chung đều xảy ra hiện tượng Hồng Hóa kỳ bí , cơ thể của hành giả biến thành một dảy ánh sáng hồng hoặc cầu vòng bay xẹt lên không trung và tan biến trong hư không .......
Điều tất nhiên hành giả phải tập thành công Bửu Bình Khí trước , sau đó mới tập đến Triệt Khuyết và Thoát Cát ; sự ấn chứng và thành tựu cần có sự trông coi và hướng dẩn của một vị Thầy Kim Cang Thượng Sư, thì mới bảo đảm sự an toàn và đạt đến sự thành tựu viên mản vậy .
THI GIẢI
道 家 尸 解
CỦA ĐẠO GIA TRONG THUẬT TU TIÊN
HAY LÀ SỰ CHUYỂN HÓA KỲ BÍ
CỦA NĂNG LỰC SINH MẠNG CON NGƯỜI .
Con người sau khi tách mình ra khỏi thế giới động vật , họ càng tích cực trong việc khám phá ra những việc kỳ bí của đại tự nhiên ; nhất là trong trăm năm nay , sự nghiên cứu của khoa học tự nhiên đả có những thành tựu vượt bực , điều nầy đả nói lên sự tài trí và thông minh của con người . Do đó , loài người đả nắm quyền thống trị trên quả địa cầu , đồng thời tự cho mình là Vạn Vật Chi Linh . Nhưng con người đả thất bại trong việc khám phá tự thân , họ đả đi vào mê lộ .
Bởi vì con người không trả lời được : Tại sao , với một cơ thể khõe mạnh ,vui tươi của mình như thế , mà lại dần dần đi vào tử vong ; sau khi cơ thể chết đi , thì ý thức của con người hoàn toàn tiêu mất hay còn tồn tại ; nếu ý thức có thể tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định , nếu ý thức của con người sau khi chết được tồn tại , thì có loại năng lượng nào có thể cung cấp cho sự tồn tại nầy ; hay ý thức có thể chuyển hóa ra một dạng năng lượng khác .
Vấn nạn nầy của con người đến nay vẩn chưa được giải đáp một cách thỏa đáng .
Thực sự , từ lâu tổ tiên của loài người đả từng quan tâm đến vấn đề sống chết , tổ tiên chúng ta một mặt quan sát tiến trình hoạt động trải qua của một sinh mạng ; mặt khác tổ tiên của chúng ta cũng đả ghi chép lại những hiện tượng dị thường của những hoạt động sanh mạng đặc biệt nầy ; Trong những ghi chép đó , có hiện tượng THI GIẢI của Đạo Gia Trung Hoa trong thuật tu Tiên là đáng được chúng ta lưu tâm nhất .
THI GIẢI theo cách nói của Đạo Gia , là hành giả tu luyện đến một giai đoạn nhất định nào đó , hành giả có thể tự ý chuyển hóa năng lượng bản thân để linh hồn có thể siêu thoát trở thành một dạng siêu nhân nào đó , mà Đạo Gia gọi là Tiên vậy .
THI GIẢI là sự giải thể của hình hài , trong Đạo Gia có phương pháp KIM THIỀN THOÁT XÁC như sau : Con người có hai thể , một là Chân Thân , hai là Giả Thân ; Giả Thân giống như một bọc gói đồ vật , nếu con người không thoát ra khỏi cái thân giả nầy , đến lúc tuổi già chồng chât́ , khi chết đi , thì linh hồn cũng bị tiêu tan theo .
Để thoát khỏi hiểm nguy đó , Đạo Gia càng tích cực tu luyện để hình thành một chân thân , để từ đó theo phương thức Kim Thiền Thoát xác , cởi bỏ lới áo giả thân để được trường sinh bất tử với ý thức củ được bảo toàn .
THI GIẢI có những hiện tượng dị thường như có người sau khi chôn một thời gian ngắn , khi đào lên thì thể xác đả biến mất ; có người trước khi chết cơ thể hóa thành một đạo kim quang mà bay thẳng lên trời .
Sự tu luyện THI GIẢI của Đạo Gia có thể nhờ tu tập khí công lâu năm mà đạt được thành tựu viên mản vậy .
Như chúng ta đã biết , ánh sáng bản chất là một dạng truyền dẩn của điện trường ; khi chúng ta nung nóng một vật nào đó với mộg nhiệt độ cao , vật đó đều phát ra ánh sáng , vì những nguyên tử và điện tử trong đó được nhiệt độ làm gia tốc vận động , và làm điện trường thay đổi , từ lượng biến ra chất mà hiện ra với hình thức phát quang ; Cơ thể của con người , đa số tế bào cũng do nhiều nguyên tố và phi nguyên tử vật chất kết thành , thông qua trường kỳ tu luyện , hành giả đả tích lủy được một mức độ năng lượng nào đó , đủ sức từ lượng biến thành chất , mà có thể phát quang ra được .Còn hiện tượng THI GIẢI có người phát ánh sáng và có những hiện tượng phát ra tiếng nổ lớn ; ta có thể dùng điện sinh vật để lý giải như sự nổ của sấm sét trong thiên nhiên vậy ; trong lúc THI GIẢI phát quang các hạt điện tử va chạm với nhau mà tạo ra tiếng nổ , nhiều khi nó còn nổ tung cả quan tài nát tan nữa .
KIẾM TIÊN
  剑 仙


Kiếm Tiên là do thuật luyện Đơn tu Tiên của Đạo Gia đem Nội Đơn hóa thành Khí , sau đó hóa Khí trở thành Kiếm , nên được gọi là Kiếm Tiên . Bên Tàu , Kiếm Tiên có hai môn phái , đó là Nam Kiếm Môn và Bắc Kiếm Môn . Sự tu luyện của Nam Bắc Kiếm Môn trên căn bàn là giống nhau , chỉ có chổ khác nhau là Nam Kiếm Môn luyện Chưởng Trung Kiêm , khi phóng Kiếm Khí từ trong tay phóng ra ; còn Bắc Kiếm Môn luyện Phục Trung Kiếm , khi phóng Kiếm Khí phóng từ mủi và miệng ; Do đó , bất kể là phóng Kiếm khí từ tay hay miệng ; nhưng trên căn bản đều dùng tinh hoa của con người là Tinh – Khí – Thần kết hợp để luyện thành Nguyên Quang , Khi Kiếm Tiên phóng khí có thể phóng ra từ miệng một luồng bạch quang , được xử dụng như Kiếm Khí có thể cách không cắt đầu cọp và có công năng xuyên sơn phá thạch . Nhà Đạo Gia có thể hợp nhất thân mình và Kiếm Khí để hóa thành một đạo hào quang bay lượn trên không .
Khi đã luyện thành Kiếm Khí , người xử dụng có thể làm thương tổn kẻ ác một cách vô hình , giai đoạn nầy là hành giả chỉ mới luyện thành Thần Kiếm , giai đoạn kế tiếp hành giả phải thu nhiếp ánh sáng , luyện Thần để có được Huệ Kiếm Nguyên Thần ; Sau đó hành giả còn phải luyện Hoàn Hư Hợp Đạo để có thể trở thành Phi Kiếm Thần Du được .
Các loại Kiếm Tiên : Thủ Trung Kiêm – Phục Trung Kiêm – Thần Kiếm – Huệ Kiếm – Phi Kiếm .
Do đó , trước tiên hành giả phải tựu Khí , tựu Quang để luyện Ánh Sáng , sau đó lấy Hư Vô mà luyện Nguyên Thần , để từ đó có thể xử dụng Kiếm Quang một cách ung dung tự tại .
Môn phái Kiếm Tiên kể trên được lưu truyền từ thời Tống bên Tàu .
KIẾM TIÊN NGŨ KIẾM

THUỘC
ĐỊA TẠNG MÔN KIẾM PHÁP

Của Kim Kiều Giác thời Đường bên Tàu .

Ngũ Kiếm là :
Khí Kiếm - Quang Kiếm - Sắc Kiếm – Kim Kiếm – Vô Kiếm

Khí Kiếm là do Khí hình thành , đó là bước đầu của Kiếm Tiên , vì lực còn yếu nên chỉ có thể phòng thân và giúp cơ thể mạnh khõe chống lại sự xâm nhập của bệnh tật .
Quang Kiếm được hình thành trên cơ sở của Khí Kiếm phối hợp với sự vận dụng Linh Quang . Đây là Linh Tánh mới phát khởi , thần thông pháp lực bắt đầu manh nha ; Loại Quang Kiếm nầy có thể phát thu tự tại , có thể biến hóa dài ngắn , to nhỏ , lúc vận dụng như Kiếm Hình , lúc thu lại như hạt đạn nhỏ gọi là Viên Kiếm , cất giử tại đơn điền . Khi hành giả luyện thành công được Quang Kiếm , là bắt đầu có tư cách sơ khởi lên cấp bậc đầu tiên của Kiếm Tiên .
Sắc Kiếm thuộc vào hàng trung cấp của Kiếm Tiên ; khi luyện thành lúc phóng kiếm hào quang lấp loáng muôn màu , có thể vượt thiên lý và có thể mang tải thông tin ; giúp hành giả mở thiên nhản , thấy được sự biến hóa vi diệu của thiên địa vạn vật ; khi ngoại giới có sự biến động , là tâm hành giả sẻ thu nhận được ngay ; bởi vì lúc đó vạn sự vạn vật như tương ứng trong tâm hành giả , biến hóa tự tri , ứng biến tùy tâm vậy .
Kim Kiếm là Kiếm của Đại La Kim Tiên , trên cơ bản của Sắc Kiếm , thông qua hợp tâm luyện tính , thu nhiếp thiện duyên của tâm địa và thiên tính mà thành . Pháp lực của Kim Kiếm rất cao cường , có thể biến đổi , gây ảnh hưởng và cải thiện mật mả và qui luật của vũ trụ thiên nhiên ; nhưng Kim Kiếm chưa có khả năng hợp nhất với đại đạo và lực của vũ trụ thiên nhiên .
Vô Kiếm là bước đại thành của Kiếm Tiên ; khi luyện thành Kiếm Tiên thì qui tựu được tam tài Thiên - Địa – Nhân ; hợp với thiên nhiên ; Vô Kiếm có đầy đủ Pháp Lực – Linh Diệu và Thần Thông ; nên Vô Kiếm có thể trở nên vô hình , vô tích , vô tướng ; người không thể thấy , quỷ thần không thể biết , biến hóa vô cùng . Vô Kiếm thuộc về vô lậu thần thông của hàng thượng thừa Kiếm Tiên , hành giả có thể hợp với thiên nhiên , hợp nhất vưới đại đạo , thông hư không , trùm pháp giới ; đạt đến cảnh giới ung dung tự tại vậy .
TUYỆT KỶ CỦA KIẾM TIÊN

Kiếm của Kiếm Tiên không phải loại kiếm làm bằng kim loại giết người sắc bén của người thường .
Kiếm của Kiếm Tiên là loại Kiếm tinh chế nhất trong tất cả các loại kiếm , dùng Thiên Tính của trời và Tâm Địa của Tiên , để tựu khí luyện Kiếm cho đến phát Quang , từ phát Quang luyệnt thành Sắc , từ Sắc trở thành Kim và từ Kim luyện thành Vô , mà hợp với tự nhiên . Khi luyện thành công , Tâm và Kiếm của hành giả có thể hợp nhất ; biến hóa tại tâm , vãng laitự ý ; Kiếm có tánh linh , tâm tưởng đến đâu , thì Kiếm bay đến đó ; trong một nhấp nháy có thể bay từ nam cực qua bắc cực , nhanh như điện chớp . Phi kiếm có thể diệt bạo trừ yêu tà , và có thể mang và truyền tải thông tin của hành giả đến nơi nào mà hành giả muốn ; Khi hành giả phóng kiếm , chỉ cần suy nghỉ trong tâm những điều muốn nói hay những hình ảnh gì đó , yếm vào trong kiếm mà phóng đến người nhận , dù cách xa muôn dặm cũng có thể đến nơi và hiện ra rỏ ràng trong tâm người nhận những điều hành giả muốn gởi . Do đó , Kiếm Tiên có thể vô hình vô tướng vận công phóng kiếm để tiêu diệt tạp niệm cùng tà tâm và tham dục của con người .
Kiếm do người luyện mà thành ; Người nhờ luyện được Kiếm mà trở thành Tiên .
THÂN KIẾM VÀ TÂM KIẾM

Thân Kiếm là vật hửu hình , Tâm Kiếm là vật vô hình ; Thân Kiếm hửu Vi , Tâm Kiếm Vô Vi .
Người luyện kiếm , thu nhiếp thân thể , để đi vào thế giới của Tâm ; dùng Tâm Nhản để quán sát thế giới và vạn vật ; luyện đến một giai đoạn nào đó , hành giả sẻ thể hội được Linh Tính Bản Nguyên của mình , từ đó mà luyện được Linh Kiếm vậy .
Tâm Kiếm : Kiếm tức Tâm , Tâm tức Kiếm , lấy Tâm dùng Kiếm thì vạn vật đều là Kiếm .
Kiếm ở trong Tâm , không thấy hình , không thấy bóng . Khi Kiếm nằm trong tay , phóng phát như điện , vô hình vô tích khiến cho người ngoài không thể phòng ngự được .
Tâm Kiếm có thể vượt khỏi sự giới hạn của Thân Kiếm , và có thể tung hành trong không gian diệu hữu .
Thân Kiếm là vật sở dụng của Tâm Kiếm , lấy Thân làm Kiếm , vận hành chân khí , phóng phát toàn thân hoặc vận dụng chân khí xuống tay , từ tay bắt ấn Kiếm , Kiếm Ấn khi đánh ra , như một thanh kiếm sắc bén , đều nằm dưới sự xử dụng của tâm .
Thân người là nơi ngụ của Tâm ; Tâm là Linh Thể của Thân ; Do Đó , khi hành giả đả hợp nhất được Thân Kiếm và Tâm Kiếm , từ đó tinh tấn tu luyện sẻ đạt đến cảnh giới thượng thừa của Kiếm Tiên vậy .
KIẾM PHÙ VÀ KIẾM CHÚ

Kiếm Phù là Ấn Chứng của người xử dụng kiếm ; Kiếm Chú là Chỉ Lệnh của người xử dụng kiếm . Khi Kiếm được luyện thành công , hành giả thường sở đắc luôn nhất Phù và Nhất Chú ; Để khi xử dụng kiếm hành giả vẻ chử Bùa nầy lên giấy rồi đốt đi , hay niệm một câu chú thì kiếm sẻ phóng đi , tùy tâm sở dục .
Bùa là hình của Tâm , dùng để phóng xuất lực của tâm ý ; còn Chú là Linh Ngử lực của Tâm được phóng xuất .
Khi luyện kiếm ở trình độ sơ cấp , thì chưa có thể sở đắc được chử Bùa Chú nầy . Việc sở đắc Bùa Chú nầy ở mổi người mổi khác ; vì khi mổi người luyện tập đến một giai đoạn nhất định nào đó , thì tư nhiên sẻ có được Tâm Phù và Thần Chú của riêng mình . Nhờ trong lúc luyện kiếm , trong thiền định sẻ tìm ra được Tâm Phù và Chú ngử của riêng mình xử dụng mà thôi , nên dù có truyền lại cho người khác cũng vô dụng và không có công hiệu . Do đó , Tâm Phù và Thần chú chỉ có thể thông qua sức lực của bản thân và được chứng ngộ từ trong tâm của tự bản thân , thì Tâm Phù và Thần chú nầy mới có hiệu nghiệm .
SÁT NHÂN KIẾM VÀ HOẠT NHÂN KIẾM

Kiếm có thể dùng để giết người và kiếm có thể cứu người ; tức kiếm có thể cứu người và cứu ta và kiếm có thể giết người và giết ta ; tất cả đều do sự vận dụng của tâm địa của người xử dụng kiếm .
Tất cả các pháp thuật trong thiên hạ đề có chổ tương thông với nhau ; thuật giết người cũng là thuật cứu sống người ; Kiếm giết người cũng là kiếm cứu sống người .
Sát nhân kiếm có thể giết người , là do tâm địa sát nhân tham dục vọng tưởng chủ động ẩn ở phía sau xử dụng ; Hoạt Nhân Kiếm có thể cứu người , là do tâm địa tinh khiết thuần lương tiềm tàng bên trong chi phối .
Sát Nhân Kiếm , Hoạt Nhân Kiếm đều là kiếm của Tâm xử dụng . Do đó , sát nhân hay cứu người đều là cái dục phát nguyên từ Tâm của hành giả . Chỉ khi nào tâm của hành giả đi vào cỏi giới thanh tịnh vô vi , thì lúc đó kiếm mới có thể siêu xuất vượt khỏi cảnh sát nhân và cứu nhân , mà tung hoành tự tại trong hợp với đạo đức tự nhiên nhi nhiên của thiên địa .
Có được một thanh kiếm toàn quyền sanh sát dưới sự xử dụng của tâm , cùng hợp tính đạo đức tự tại của kiếm , lúc đó hành giả có thể vượt lên khỏi vạn vật rồi vậy .
Người luyện kiếm , hảy luyện cho mình một thanh kiếm cứu người , nó một thanh tâm tâm kiếm ung dung tự tại khả quí đấy .
LINH KIẾM

Kiếm là do người nắm , chỉ có người vô uý , kiếm mới vô úy ; chỉ có người trung trực , kiếm mới trung trực ; chỉ có tâm tà thì kiếm mới tà .
Chỉ có cảnh giới tâm địa vượt khỏi sanh tử , vạn sự vô ngại , thì kiếm mới có linh hồn ; dùng tánh linh của kiếm để phù trợ chính nghĩa , tiêu trừ tà ác , thì mới xứng đáng là thiên hạ vô địch .
Hảy tôn kiếm như Tiên , như Phật , như Tâm của ta , thì kiếm và ta hòa cùng nhất thể , thì âm thanh của kiếm là sự thố lộ linh ngử của tâm hồn ; nếu làm được như thế trong khi luyện kiếm , thì kiếm sẻ có được linh hồn tiềm ẩn trong đó vậy .
Khi kiếm có sanh mạng , thì sẻ có linh hồn , thì sẻ phát sanh trí huệ ; khi đả ttrở thành một thanh kiếm trí huệ , thì nó có khả năng chặt đứt tất cả phiền nảo , tham ô và ái dục , thì đây thực là một thanh thuần dương chi kiếm .
Khi dùng pháp lực của kiếm vào việc thiện , đó là tánh linh của kiếm và là hào quang của kiếm .
Khi dùng pháp lực của kiếm vào việc ác , thì đó là sự cong vại và ô uế của kiếm .
Nếu đem tình thương yêu bác ái lồng vào trong kiếm , khi đem xử dụng ở một nơi nào , thì một sanh mạng sẻ được sanh ra từ nơi đó ; đó là một thanh Ái Kiếm .
Nếu đem tình yêu lồng vào trong kiếm , khi đem xử dụng ở một nơi nào , thì nơi đó sẻ có linh quang ; đó là một thanh Tình Kiếm .
Sự linh diệu của kiếm phát xuất từ trong định , kiếm tâm luôn trau luyện từ trong thanh tịnh vô vi , chỉ cần trong tâm vận lên thanh linh kiếm của tâm tự tại nầy , thì mới có thể vượt qua tâm hải và hình tướng của vạn vật .
Hành giả , hảy luyện cho mình một thanh kiếm vô tâm vượt lên khỏi tất cả , thì nó mới thật là một thanh linh kiếm vậy .
LỤC MẠCH THẦN KIẾM

Lục Mạch Thần Kiếm là môn tuyệt kỷ của dòng họ Đoàn , người nước Đại Lý ở Vân Nam ngày xưa ; Lục mạch Thần Kiếm nằm trong bộ bí kiếp THIÊN LONG THẦN CÔNG BÍ ĐIỂN , nó thâu gồm tinh hoa của Phật – Đạo – Vỏ – Y và tất cả tinh hoa tuyệt kỷ trong dân gian thời đó , như Thiên Trúc Thần Công – Nhật Nguyệt Hấp Tinh Đại Pháp – Nhiếp Thần Đại Pháp – Lăng Ba Vi Lộ – Sút Cốt Thần Công – Xích Âm Thần Công – Xích Dương Thần Công ......Đây là một bộ võ lâm bí kiếp vô giá .
Lục Mạch Thần Kiếm là môn chỉ pháp nội công thượng thừa ; thông qua một quá trình nội tu ngoại luyện đặc biệt , để khai thông sáu luồng kinh mạch trong thân thể , tức thủ thái âm kinh – thủ khuyết âm kinh – thủ thiếu âm kinh – thủ thái dương kinh – thủ thiếu dương kinh – thủ dương minh kinh , để từ đó tu tập tích tụ nội khí , để từ đó hình thành Lục Mạch Thần Kiếm .
Lục Mạch Thần Kiếm gồm có : Tam Âm Kiếm và Tam Dương Kiếm .
Tam Âm Kiếm thì khí nhu mềm và trầm kết ; Tam Dương Kiếm thì khí dủng mảnh kiên cường .
Lục Mạch Thần Kiếm có thể vận dụng Đơn Kinh Kiếm Khí , căn cứ vào Tí Ngọ Lưu Trú để trị bệnh hay phát kiếm khí tấn công làm thương hại đến tạng phủ của kẻ địch .

Hành giả có thể thông qua lục mạch mà phóng kiếm khí ra ngoài hoặc có thể thu hồi một cách tự tại ; nếu phát ra ngoài , nếu phát lực nhẹ có thể trị bệnh cho người khác , nếu tăng mạnh công lực có thể trở thành một thanh kiếm sắc bén , chỉ cần vẩy ngón tay , có thể đâm thủng cơ thể và làm thương hại nội tạng của kẻ địch ; vì kiếm khí là do thần ý và tâm niệm chủ động , trong quá trình thu phóng đều do ba kinh âm hay ba kinh dương ở tay xử dụng , nên có tên là Lục Mạch Thần Kiếm .
THIÊN LONG THẦN CÔNG BÍ ĐIỂN thâu tóm tinh hoa từ Y Học – Đạo Học – Phật Học – Dịch Học .....Lấy Thần làm Gốc , lấy Khí làm căn cơ , lấy lực bổ trợ , mà hợp luyện Thần và Khí , nội ngoại kiêm tu . trong Dịch Học và Y Học thì thâu nạp lý luận âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc ; đồng thời dùng thố nạp vận khí phối hợp với Lục Tự Quyết để trị liệu ngủ tạng lục phủ và làm mạnh nội tạng ; luyện nguyên khí của ngũ tạng .
Về phương diện Vỏ Học , nó lấy hạ đơn điền làm chủ , để luyện dưởng nguyên khí tiên thiên , đồng thời thu nạp chánh khí của thiên địa để bổ xung , nội ngoại kết hợp để để tu luyện và bồi dưởng chân khí .
Về phương diện Đạo Học , nó hấp thu phương pháp đả thông 12 kinh mạch ở châu thiên , kỳ kinh bát mạch và huyệt đạo toàn thân , để khai thông trăm mạch ,hầy cho khí huyết được vận hành thông suốt .
Về phương diện Phật Học thì tinh chọn phương pháp tọa thiền , dùng tâm để tu luyện thông linh bí pháp , để từ đó công lực được tinh thuần .
NHIẾP THẦN ĐẠI PHÁP

Nhiếp Thần Đại Pháp được chia ra làm sơ cấp và cao cấp . Sơ cấp chuyên về Trấn Phục ; Cao cấp chuyên về Thu Nhiếp .
Trấn Pháp là dùng Thần để trấn áp kẻ địch , khi nội lực đầy đủ có thể dùng thần khí mà áp đảo kẻ địch , từ mắt của hành giả sẻ phát ra luồng khí quang sắc bén , đi sâu vào đồng tử của người đối diện , làm cho kẻ địch kinh sợ hồn bay phách tán , mà mất đi khả năng chống cự , nếu có tập hành giả có thể phối hợp với linh phù đặc biệt , mà đồng thời phóng ra để trấn áp kẻ địch thì việc chế ngự kẻ địch sẻ càng nhanh và càng có nhiều hiệu nghiệm .
Nhiếp Pháp là dùng công lực thâm hậu của hành giả , để đánh vào trong cơ thể của kẻ địch , đánh bật nguyên thần của họ ra ngoài , hàn giả thu nhiếp nguyên thần của kẻ địch về mà tùy nghi xử dụng như âm binh vậy .
BẾ HUYỆT ĐẠI PHÁP

Bế Huyệt Đại Pháp là một phương pháp bảo vệ huyệt đạo của bản thân để không bị sự tấn công của kẻ địch và từ đó có thể dùng huyệt đạo của mình mà tấn công huyệt đạo của kẻ địch .
Đầu tiên là phương pháp đổi huyệt đạo và phong bế huyệt đạo :
Tức là luyện được một cơ thể thuần nguyên Kim Cang Thân Bất Hoại , có thể tùy ý làm di động các bắp thịt một khoảng cách nhất định để che lấp các huyệt đạo hay làm xê dịch các huyệt đạo di chuyển lên xuống , phải trái ; để khi kẻ địch dù có đánh trúng vị trí các nguyên huyệt , mà ta vẩn không bị thương tổn .
Tiếp đến thông qua việc bế huyệt hay đổi huyệt , để từ đó hành giả dùng ỵ́ vận khí của đan điền tụ lại tại các khí huyệt đả phong bế hay đã dời đổi , nơi đây do sự tụ khí hóa thành những hạt đạn sắt cứng vô cùng , từ đó khi kẻ địch điểm vào sẻ là ngón tay bị gảy hay bị thương tật . Từ đây hành giả có thể luyện đến sút cốt công , như vậy hành giả có thể tùy ý làm chuyển động các bắp thị và xương cốt đến vị trị nhất định nào đó một cách dể dàng ; như vậy công pháp phong bế huyệt đạo càng đạt được hiệu quả cao .
LÔI TÂM CHƯỞNG

Lôi Tâm Chưởng là hành giả vận dụng Linh Tử ẩn tàng trong Sấm Sét thu nhiếp tại lòng bàn tay , sau đó dùng niệm lực để vẻ bùa , rồi từ đó mà phóng phát năng lượng cùng thông tin mật mả ra ngoài để trị bệnh hay tự vệ .
Lôi Tâm Chưởng có bùa có chú , dùng để trị bệnh , đuổi tà ma , trấn ác phát dương thiện tâm , có thể cầu mưa , làm tan mây và triệu thỉnh cảm ứng thông với quỷ thần ..
Lôi Tâm Chưởng gồm có : Chưởng Tâm Lôi Nội Luyện Pháp – Chưởng Tâm Lôi Khai Quang pháp – Ma Chưởng Sinh Điện Pháp – Tiếp Lôi Trợ Công Pháp – Thái Điện Trợ Công Pháp – Chưởng Tâm Lôi Trị Bệnh Pháp – Chưởng Tâm Lôi Cách Không Trị Bệnh Pháp – Chưởng Tâm Lôi Cách Không Trị Ác Pháp – Chưởng Tâm Lôi Thối Giải Pháp và Chưởng Tâm Lôi Khứ Tà Pháp – Tán Vân Pháp ......
NGŨ LÔI CHƯỞNG PHÁP

Ngũ Lôi Chưởng Bí Pháp là nội công của Đạo Gia , tương truyền từ xưa dùng để trắc định trận pháp của quân địch , hoặc dùng ngũ Lôi để bố trận ; do Quỷ Cốc Tử truyền dạy , Tôn Tẩn , Trương Nghi và Tô Tần ở đời chiến quốc đều thông thạo thuật nầy ; sau đó truyền lại cho Bạch Ngọc Đàm , Dư Bổn Thiện , Bác Học Sơn ........
Bên Thiếu Lâm ngoại gia cũng có Ngũ Lôi Chưởng , thường gọi là Ngủ Độc Thủ Chưởng Pháp , là một pháp nằm trong 72 thần công của Thiếu Lâm .
Hiện nay , Ngũ Lôi Chưởng là công pháp cao cấp của phái Vỏ Đang , trong sự tập luyện có phương pháp luyện nghe tiếng sấm sét ; phương pháp tập phát âm , dùng sự chấn động của âm ba như sấm sét để trị bệnh .
Sự tập luyện Ngũ Lôi Chưởng pháp có liên quan đến sấm sét , luyện Ngũ Lôi Chưởng cần phải thu nhiếp âm thanh của sấm sét , trong những ngày mưa to gió lớn , sấm sét nổ đùng đùng là thời gian tốt nhất để tập luyện , nhờ thế mệnh môn của hành giả có thể mạnh lên mà giúp ích cho công pháp phát thanh sau nầy . Thứ đến khi dùng Ngũ Lôi Chưởng pháp để trị bệnh thì hành giả cần dùng viết chấm dung dịch loảng của một hợp chất thuốc tán nhuyển của Chu Sa – Lưu Huỳnh – Bạch Truật mà vẻ lên một tờ giấy vàng 7 chử bùa bằng cổ tự chử Tàu với tấm giấy vàng khác vẻ chử một chử bùa cổ tự chử Lôi lên đó .Sau đó đặt tấm giấy có 7 chử bùa lên thân người bệnh và đặt tấm giấy có chử Lôi lên chổ bị bệnh , kế đến hành giả vận công phóng khí vào chổ bệnh , lúc nầy hành giả có được khí cảm và khi khí đả đi vào chổ bị bệnh , hành giả tức thời dùng tiếng hét sư tử hống phóng âm ba như sấm sét phối hợp với năng lượng của khí lực mà đả thông kinh mạch và đem quỷ đạo mật mả của DNA trở về nguyên vị nơi bị bệnh , để từ đó bệnh được thuyên giảm và tiêu trừ .
Nói về thuật tập luyện của Ngũ Lôi Chưởng trong trị liệu bệnh tật gồm có phương pháp thu nhiếp lấy tinh khí của bốn phương của Bạch Hổ – Huyền Vũ – Thanh Long – Chu Tước tương ứng với chân khí của ngũ tạng , cộng vào bộ pháp của Long – Hổ – Qui – Hạc – Xà , phối hợp với phương pháp phát linh âm của ngũ tạng , để từ đó tiềm tâm nội thủ , cố tinh để thủy qui nguyên , tâm bất động , khí kết mà hỏa triều nguyên . Chân tính tịch tịnh để ngũ khí triều nguyên mà hóa thành Linh Khí để tùy tâm xử dụng trong Ngũ Lôi Chưởng Pháp .
Ngoài ra , người tập Ngũ Lôi Chưởng Pháp còn phải thông thạo Đại Lục Nhâm , các cách bố trận của Thiên Bàn và Địa Bàn cùng các pháp bố khí . để có lợi trong lúc vận dụng Ngũ Lôi Chưởng Pháp trong trị liệu và tự vệ .
CHƯỞNG TRUNG PHÙ

Chưởng Trung Phù tức hành giả vẻ bùa vào trong lòng bàn tay , từ đó làm linh lực trong bùa trở nên hiệu nghiệm .
Chưởng Trung Phù thường dùng trong lúc đi đêm , hành giả viết trên tay chử “ Tôi là Quỷ Vương ” , từ đó tâm hành giả được an và ma quỷ không dám xâm phạm đến ; trước khi uống rượu viết trong tay chử Thủy , thì uống không bị say ; Nếu đi thăm bệnh hay dự đám táng , viết trong tay chử Trừ , thì sẻ được bình an vô sự ; khi qua sông qua đò , viết trong tay chử Long hay Rồng , thì sẻ thuyền sẻ không bị chìm hay bị say sóng ,chóng mặt ; khi vào rừng lên núi , viết trong tay chử Hổ m, thì bách thú sẻ không làm hại ......khi viết hành giả cần thành tâm với một lòng tin tưởng vững mạnh , thì bùa sẻ linh nghiệm .
Chưởng Trung Phù rất thích hợp dùng trong những trường hợp đột biến cấp thời , có thể tự cứu và cứu người ; có công năng như Thần Linh nhập xác vậy ..
Sự linh nghiệm của Chưởng Trung Phù được tăng lên nhờ vào sự tu luyện của hành giả , để Chưởng Trung Phù có thể phát quang ; đó là nhờ hành giả đả luyện thành Âm Dương Công , nên công lực của chử Bùa đả trở nên linh nghiệm .
Âm Dương Công Pháp , thật ra là sự phối hợp của Âm Công và Dương Công . nam hành giả trước phải luyện Âm Công trước rồi sau mới luyện Dương Công , rồi saun đó luyện phối hợpđể thành tựu Âm Dương Công Pháp ; Còn Nử hành giả thì phải tập ngược lại ; luyện Âm Công thì phải chọn ngày Âm mà tập , ngược lại luyện Dương Công thì phải chọn ngày Dương mà tập , khi hợp luyện Âm Dương Công thì phải chọn ngày Âm Dương mà tập .

Khi xử dụng Chưởng Trung Phù , vận khí dùng Kiếm Ấn , nam tả nữ hữu mà viết chử bùa vào tay , có hơn 100 chữ bùa khác nhau cùng cách vận dụng khác nhau thích ứng với mổi tình huống khi hành giả gặp phải .
Chưởng Trung Phù có thể bảo toàn tính mệnh , cứu cấp , tránh tà , thoát hiểm ; tức thời có thể xử dụng , ngoài ra Chưởng Trung Phù còn giúp cơ thể khõe mạnh , may mắn ....


Mọi sự trích dịch hay copy đều phải ghi rỏ nơi xuất xứ như sau :

Do hội viên ÁNH SÁNG - T2 - ÚC CHÂU biên soạn .
Ngày 07 tháng 05 năm 2007
http://www.thegioibuangai.com

Những thông tin trong các bài viết đặc biệt trên đây , lần đầu tiên được phổ biến công khai trên mạng lưới internet của người Việt chúng ta ; tùy theo môn phái , trình độ tu tập và trình độ thức giác , cùng kinh nghiệm ấn chứng của mổi người , sẻ có những trợ duyên khác nhau trên bước đường tu tập Mật Pháp . Tuy nhiên , soạn giả xin nhấn mạnh và cảnh cáo là , đọc giả chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật cũng như đối với bản thân , khi xử dụng những thông tin nầy ; xin hảy xem những thông tin nầy , như những tham khảo mà thôi , mọi sự ứng dụng , thực hành đều cần phải có Minh Sư đã từng đắc đạo qua môn nầy chỉ dạy .
Mọi công đức xin hồi hướng về sự thành đạt trong an lạc , khỏe mạnh và tinh tấn của mọi người , để cùng nhau xây dựng một thế giới nhân sinh đầy thịnh vượng và hạnh phúc viên mản .
Ánh Sáng – T2 – Úc Châu
Chân Thành Kính Bái ....
Kiến văn của huynh thật đáng ngưỡng mộ. Xin cảm ơn huynh về những tư liệu quý này. Nhờ những bài viết của huynh mà tôi biết được sư huynh tôi trước đây đã tu tập những pháp nào, một câu hỏi lớn giờ đây đã có lời giải đáp...
bài viết của các huynh rất hữu ích nhưng đệ chẳng giám tập làm theo. Không biết khi nào có duyên gặp được thầy đây.
Xin được hỏi các vị tiền bối có phải là :
Ngũ lôi chưởng pháp này tương tự trong Đại bi chú bên Phật giáo gọi là Kim Cang Bạt Chiết La Thủ Nhãn Ấn Pháp hay Kim Cang Luân Ấn Pháp, khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này có thể thu phục được mọi loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần. Ngoài công năng đánh tan các loài ma quỷ còn phát ra âm thanh chấn động nên Đạo giáo gọi âm thanh phát ra khi thi hành pháp này là " Ngũ Lôi Oanh Đảnh"
_________________
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp than
Kính huynh ANHSANGT2,

Bài viết của huynh về huyền thuật Mật Tông Tây Tạng có rất nhiều tư liệu hay để mọi người có dịp tìm hiểu. Trong đó tiểu đệ rất quan tâm về phép Di Hồn và Mộng Du Đại Pháp, nên hôm nay xin phép được trao đổi thêm với huynh về lĩnh vực này.

Trong phép Mộng Du Đại Pháp, huynh có chỉ cách quán tưởng đến các vị Thượng Sư, Bổn Tôn và Đại Nhật Như Lai. Các vị Thượng sư và Bổn tôn thì tiểu đệ không thấy nhắc đến tên cụ thể, chỉ thấy nhắc tên của Đức Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana) là tông chủ của Mật Tông mà thôi. Có nghĩa là trong những trường hợp khác nhau, hành giả sẽ có các vị Thượng sư và Bổn tôn khác nhau chứng thực cho phép Di Hồn và Mộng Du của mình.

Nếu hiểu rộng hơn, khi áp dụng phép Mộng Du Đại Pháp cho những hành giả không thuộc phái Mật Tông thì có thể quán tưởng đến các vị Sư và Tôn của giáo phái khác được hay không? Bởi vì ngoài những hành giả Mật Tông biết xuất hồn còn có rất nhiều giáo phái khác cũng thực hiện được phép này. Hiện nay có nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn giáo v.v... và rất rất nhiều tông phái khác nhau trong mỗi tôn giáo đó.

Vài lời kính huynh, nếu được thì xin huynh chỉ giáo thêm để mọi người có cơ hội quý báu tìm hiểu thấu triệt về phép xuất du thần thức này.

Chúc huynh ANHSANGT2 vạn sự như ý.
Huynh Love Tâm Linh
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:57 am

Trong phép Mộng Du Đại Pháp , AS không có để tên của Kim Cang Thượng Sư và tên Bổn Tôn , vì chỉ khi nào mình được một vị Thượng Sư nào đó trong khi làm phép quán đảnh lần đầu tiên , thì mình sẻ được vị Thượng Sư nầy chỉ định cho một vị Phật hay Bồ Tát nào đó , thích hợp với tâm tánh của mình để làm bổn tôn của mình ; như vậy vị Phật hay Bồ Tát bổn tôn nầy thích hợp với tâm tính của mình và kể từ đó mình xem như đã kết duyên với vị bồ tát nầy ; do đó , về sau trong lúc thiền định quán tưởng thì mình phải quán tưởng linh ảnh của vị bổn tôn nầy cùng tất cả chú ngử , ấn quyết , chủng tử tự , uy đức cùng đức tính của vị bổn tôn nầy và cuối cùng nhập làm một với bổn tôn nầy , theo phương pháp quán tưởng bổn tôn pháp ; mổi vị bổn tôn đều có chú ngữ , Ấn quyết , chủng tử tự , linh ảnh và uy đức riêng , mổi người tùy theo tâm tánh của mình mà có thể chọn một hay nhiều vị bổn tôn để tu tập cũng được .
AS sẻ có một bài nói về cơ cấu của tâm , ánh sáng và không tính bên trong của quán tưởng bổn tôn trong Mật Tông , mà Bổn Tôn Pháp và Thượng Sư Tương Ứng Pháp là hai cột trụ quan trọng nhất , có ảnh hưởng to lớn và xuyên suốt , bao trùm lên tất cả những mật pháp trong Mật Tông Tây Tạng .
Một khi ,đả tu tập lâu trong mật tông cùng quán thông các huyền môn mật pháp của các tôn giáo khác , thì lúc đó sẻ biết được cơ cấu bên trong của sự quán tưởng mổi vị Thần trong tôn giáo của mình sẻ có cùng một nguyên tắc mà thôi ; việc nầy là thuộc về sự hình thành pháp môn tu luyện của mổi vị tổ truyền thừa lại .
Thí dụ , trong Do Thái Bí Giáo Kabalah , trong mổi vị trí quán tưởng trong cây sinh mạng thọ , đều có một vị Thần cư ngụ tại đó , vị Thần nầy có hình dáng , chú ngử cùng chủng tử tự riêng của mình , mà mình phải biết mà quán tưởng .
Do đó , ta không được dùng phương pháp quán tưởng bổn tôn của Mật Tông mà thay vào đó các vị Thần của tôn giáo khác mà quán tưởng , thì sẻ không có hiệu quả .....
Về thuật Di hồn Huynh có thể tham khảo thêm các phương pháp xuất hồn mà AS đả và đang viết trên website Vietlyso.com ...
Và để hiểu rỏ hơn về các pháp tu Mật Tông , huynh nên tìm hiểu về các 6 pháp môn thành tựu của Naropa , cùng thỉnh thoảng theo dỏi những bài đăng trên website huyenbihoc.com sẻ có ích cho việc tu tập hơn .
Kính huynh ANHSANGT2,

Đa tạ những chỉ giáo của huynh giúp tiểu đệ hiểu rõ về các Đại Pháp mà huynh có công đức sưu tầm được.

Cám ơn huynh đã đoán trúng ý là đệ đang quan tâm lĩnh vực xuất hồn, thoát xác (OBE), chắc chắn đệ sẽ tìm kiếm các tài liệu của huynh viết để nghiên cứu cho tường tận.

Chúc huynh luôn tinh tấn, vạn sự hanh thông trên con đường tu tập pháp đạo.
TÂM – ÁNH SÁNG VÀ KHÔNG TÍNH

Tâm và Ánh Sáng là hai khái niệm đặc biệt , quan trọng và phổ quát nhất trong Bổn Tôn Pháp của Mật Tông Tây Tạng .
Việc nắm vững những nguyên tắc và nhận thức được minh bạch về Tâm và Ánh Sáng trong khi tu tập Mật Pháp , là một vấn đề thiết yếu đầu tiên của một hành giả sơ cơ , đồng thời nó cũng là một khâu quan trọng nhất mà không một hành giả nào, trong Mật Tông có thể trốn tránh được , nên việc thông hiểu về Tâm và Ánh Sáng là điều quan trọng cơ bản nhất cho những tu tập cao hơn về sau .
Thực ra , Tâm và Ánh Sáng là một mục tiêu tìm cầu của những hành giả tu hành theo Mật Pháp Tây Tạng ; theo như Vô Thượng Du Già Bộ của Mật Tông Tây Tạng , việc ấn chứng được Ánh Sáng của Chân Tâm trong thân thể Phong Tâm Vi Tế của hành giả Mật Tông , đã giúp họ vượt xa khỏi hai ải quan sanh và tử của con người .
Phần kết cấu sâu bên trong nhất của con người là phong tâm vi tế , mà trong Vô Thượng Du Già Bộ gọi nó là Bản Lai Thân Tâm ; vì theo Mật Tông Tây Tạng , cơ thể con người được chia ra làm hai phần , gồm có thân thô kệch và thân vi tế ; mà Tâm và Ánh Sáng là tinh hoa của thân vi tế bên trong , nó là bản tính của tất cả các pháp thế gian , xuất thế gian và sanh tử niết bàn .
Tối Vi Phong tức Phong Đại bên trong vi tế nhất của thân thể con người , được gọi là Trí Tuệ Khí , Bất Hoại Khí hay Quang Minh Khí ; thực ra loại Khí nầy là sự hoạt động của Ly Hý Minh Điểm , hay nói cách khác sự cấu thành Ly Hý Minh Điểm là do sự tập hợp của Tối Vi Phong ; Đối với một người phàm phu chưa tu tập qua Mật Pháp thì Tối Vi Phong nầy còn tiềm phục trong kinh mạch , qua hình thức của Bất Hoại Minh Điểm , mà Bất Hoại Minh Điểm nầy lại kết hợp với những chủng tử vô minh phiền nảo của A Lại Da Thức , tất cả tiềm phục tại Luân Xa Tim trong trung mạch .
Vì thế , Mật Tông Tây Tạng nói rằng : Trong trái tim thịt của phàm phu có ẩn tàng một Bản Giác Quang Minh , gọi là Bồ Đề Tâm ; theo Vật Lý Học hiện đại thì Tối Vi Phong , có thể lý giải như là bản thân của một loại trí tuệ siêu việt của một loại năng lượng vi tế hay một loại trường vi tế đang ẩn tàng trong thân thể con người .
Quang Minh hay còn gọi nôm na là Ánh Sáng , trong Mâṭ Tông Du Già Bộ Ánh Sáng được xem là bản lai giác tính của tâm , khi chưa bị vọng niệm vô minh che phủ ; nên có thể nói rằng bản chất của tâm là Ánh Sáng , bởi vì trong lúc tâm tính hiển lộ thì sẻ sản sinh ra ánh sáng chói lọi ; nên Tâm là Ánh Sáng vậy .
Tâm không chỉ là một loại năng lực của tinh thần , mà Tâm còn là một loại Ánh Sáng nửa ; trong Mật Tông Tây Tạng Ánh Sáng cũng là một loại Khí , nên tâm và khí luân phiên xuất hiện trong thân của hành giả tu Mật Pháp vậy .
Khí là sự hình thành của năm loại ánh sáng , mà sự tồn tại của nó có thể khiến cho tâm của hành giả trở thành trí tuệ , tức Định phát sanh Tuệ và đồng thời củng trở thành một loại thân Kim Cang bất hoại của hành giả nữa ; Bản chất của Thân Kim Cang nầy là do trí tuệ của Ngũ Trí hợp thành , nó đại biểu cho một trạng thái tồn tại siêu việt của hành giả . Nguyên lý xuất hiện của sự chuyển hóa nầy là do trong Khí có tiềm phục manh nha một trạng thái lấp lánh của ánh sáng trong đó vậy .
Ta có thể đứng trên góc độ khách quan và chủ quan để xem xét bản chất tương đồng của Tâm và Ánh Sáng . Trên góc độ chủ quan , thì ta Ý Thức được Ánh Sáng chiếu sáng lên tất cả sự vật trong Không Gian của thế giới khách quan ; tức có sự tương quan của Tâm và Không Gian , tức Tâm Thần Vô Nhị . Còn trên góc độ khách quan , Ánh Sáng là bản thân của Không , là Không Tính ; tức không thể biến thành nội dung của tư tưởng .
Sự tương quan của Tâm và Ánh Sáng , các môn phái Mật Tông Tây Tạng đều có những nhận thức riêng của mình ; có phái cho rằng Ánh Sáng là một năng lực điển hình , là tánh tướng của Tư tưởng , của Tâm ; mà Không Tánh là bản chất hình thành của Ánh Sáng ; nói cho dể hiểu thì Ánh Sáng là tánh tướng của Tâm và Không Tánh là bản chất của Tâm và Ánh Sáng ; cả ba có sự tương quan mật thiết , tam vị nhất thể vậy . Bởi vì Không không thể thoát ly Ánh Sáng và ngược lại ; nên Tâm và Không là một sự kết hợp đại biểu của tính phi khách quan thuần túy , một trạng thái siêu việt bất khả tư nghì của Tâm vậy .
Đối với sự liên hệ và thực chất của Tâm và Ánh Sáng ; thực ra chỉ là một loại cảm thụ được trong lúc tu hành của Tôn Giáo ; Trong quá trình tập luyện của Mật Tông Tây Tạng , trong tâm của hành giả sẻ sản sanh ra một loại ảo giác , thông qua ảo giác nầy khiến cho tâm phát hiện ra ánh sáng ; từ đó tâm có một ý nghĩa quan trọng và ánh sáng đã trở thành bản nguyên của tất cả sự vật ẩn tàng trong thân thể của con người .
Sự kết hợp thuần khiết vô phân biệt giữa Tâm và Áng Sáng trong Mật Tông đã chuyển hóa nó thành một loại ánh sáng có màu đen hoặc màu trắng ; từ đó nó đã trở thành một tạo vật được kết hợp lại thành đôi trắng đen hay không thành đôi , mà độc lập riêng biệt .
Điều quan trọng cần nên nói rỏ là , sự nắm vững bản chất của Tâm và Ánh Sáng trong khi tu luyện là một là một pháp môn quan trọng và cao nhất của Mật Tông Tây Tạng và nó cũng là một mật pháp cao thâm khó có thể nắm chắc được . Nên những hành giả sơ cơ cần có sự hướng dẩn của một vị Kim Cang Thượng Sư trong Mật Tông thì mới có thể tu hành Mật Pháp được ; nếu không thì trong quá trình tu tập cùng thực hành các nghi quỷ của mật pháp , thần bí biến hóa phức tạp vô lường , hành giả sẻ bị bần thần choáng váng mày mặt , hồn phi phách tán mà dể bị tẩu hỏa nhập ma vậy .
Để hiểu rỏ bản chất Ánh Sáng của Tâm Linh trong lúc tu tập mật pháp trong mật tông , ta cần phân biệt các loại ánh sáng như sau :
Trong Vô Thượng Du Già Bộ của Mật tông Tây Tạng chia ánh sáng ra làm ba loại : Căn Quang Minh – Đạo Quang Minh và Quả Quang Minh .

1.- CĂN QUANG MINH :
Còn được gọi là Căn Bản Quang Minh , Mẩu Quang minh . Trong đó lại còn phân ra các loại ánh sáng khác là Thực Tế Quang Minh , Tử Vong Quang Minh , Thụy Miên Quang Minh .
Mật Tông cho rằng , Căn Bản Quang Minh tức Ánh Sáng Căn bản , nó luôn tiềm phục trong thân thể của tất cả chúng sanh , dù họ có tu hành hay không , thì trong một thời gian đặc biệt nào đó , ánh sáng căn bản nầy sẻ tự nhiên hiển lộ .
Thực Tế Quang Minh , còn gọi là Lý Quang Minh , là bản tính sẳn có trong tâmcủa tất cả chúng sanh hửu tình , trong Phật Giáo Hiển Tông gọi là Bản Giác hay Phật Tánh .
Tử Vong Quang Minh , là một loại ánh sáng mà người sắp chết hay đã chết rồi , mà còn trong trạng thái trung ấm , chưa đi đầu thai , họ đã thấy được một loại ánh sáng , loại ánh sáng nầy gọi là Tử Vong Quang Minh .
Trong Kinh Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận có nói : Để hình thành sanh mạng của chúng sanh , bắt đầu từ Tự Tánh Quang Minh , sanh ra Vô Minh , từ Vô Minh sanh ra Không , từ Không lần lượt sanh ra tứ đại Phong – Hỏa – Thủy – Địa ; sự tập hợp của tứ đại sanh ra sắc thân . Khi con người lúc lâm chung , thì Thần – Thức – Khí và Tứ Đại phân ly , thứ tự nghịch xuất sinh sẻ tuần tự thu nhiếp lại , địa đại đi vào thủy đại , thủy đại đi vào hỏa đại , hỏa đại đi vào phong đại , hỏa đại đi vào tâm , tâm đi vào tâm sở , tâm sở đi vào vô minh , từ đó đi lần vào trong ánh sáng , như thị tam hửu diệt .
Khi Tâm thức đả thoát ly khỏi sự trói buột nhục thân của tứ đại , thì tất cả những vọng niệm sở thuộc sanh ra từ tứ đại đều không còn chổ nương tựa , chúng tạm thời ngưng hoạt động , từ đó ánh sáng tự tâm không còn bị vọng niệm che lấp liền xuất hiện ; tiếp theo sự thu nhiếp của tứ đại , tất cả những khí của thân thể đều chạy tụ về trung mạch và thu nhiếp vào luân xa Tim ; trong lúc đó trong tâm thức của người chết sẻ thấy xuất hiện nhiều loại cảnh tượng ánh sáng và cuối cùng là thấy Tâm Quang Minh ; giai đoạn thấy nầy của người chết gọi là Lâm Tử Bát Tướng , là tám cảnh giới thấy được trong tâm của người chết .
Do đó , Mật Tông đả căn cứ vào nguyên lý cùng sự hiển lộ của Tử Vong Quang Minh mà kiến tạo pháp môn TRUNG ẤM THÀNH TỰU PHÁP ; hành giả tu mật pháp nhờ thường ngày tu tập pháp môn nầy đã làm quen cùng kinh nghiệm được các loại ánh sáng trong tâm , nên lúc lâm chung hay đả chết đi hành giả có thể nhận thức được Tử Vong Quang Minh mà đem tự tâm của mình hợp nhất cùng ánh sáng mà chứng đắc được Pháp Thân , để được thoát khỏi sinh tử . Nhờ hành giả thường ngày tu tập Khí Mạch Minh Điểm , khi Khí đã đi vào trung mạch thì hành giả có thể trong lúc còn sống cũng có thể thấy được các cảnh tan rả của tứ đại và sự tách rời của Thần Thức và thấy được ánh sáng , y hệt như cảnh mà người chết thấy được trong tâm của Lâm Tử Bát Tướng vậy .
Có thể tham khảo thêm cách Mật tu của TRUNG ẤM THÀNH TỰU PHÁP trong Naropa Lục Pháp .

2.- ĐẠO QUANG MINH :

Còn gọi là Tử Quang Minh , trong quá trình Mật tu của hành giả , nhờ phương pháp điều tâm hành giả đã ấn chứng được các ánh sáng của Tử Quang Minh .
Các loại ánh sáng của Tử Quang Minh được phân ra làm : Thông Nghĩa Quang Minh – Mật Nghĩa Quang Minh – Giác Thọ Quang Minh – Miên Bạc Quang Minh – Thụy Trọng Quang Minh – Du Quang Minh – Thực Nghĩa Quang Minh ......
Thông qua sự tu tập Du Già liểu đạt được tâm tính bản lai vô sanh , nhất trí với kiến địa về tướng của tâm tính của phái Trung Quán và Hiển tông , tức Hiển mật cùng thông nên gọi là Thông Nghĩa Quang Minh .
Do sự tu tập mật pháp sanh khởi , viên mản nhị thứ đệ cùng song vận đạo , thụy miên thiền định , tức mộng quán thành tựu mà ấn chứng được Mật Nghĩa Quang Minh .
Nhờ tu tập thiền định , mà cảm nhận được ánh sáng của tâm , nên gọi là Giác Thọ Quang Minh .
Nhờ sự cảm thọ được trong lúc tu tập Thụy Miên Thiền Định , trong giấc mộng mà vẩn có thể tiêu diệt được sự hôn muội , duy trì được Tâm Tính Minh Không mà thấy được những cảnh tượng của tâm vi tế , nên gọi là Miên Bạc Quang Minh .Sau đó ,nhờ công lực của hành giả mổi ngày một tăng , nên trong lúc nằm mộng mà luôn thấy ánh sáng luôn hiển hiện không tắt , nên gọi là Thụy Trọng Quang Minh .

Căn cứ vào Thân Tâm là một , từ việc tu thân như tập các môn khí công Mật Tông như Bảo Bình Khí , Kim Cang ......hành giả từ từ đem khí vào trong trung mạch , từ đó đi vào cỏi tịch tịnh ly niệm của thiền định , từ đó thấy được ánh sáng có hình như mặt trăng , nên gọi là Du Quang Minh ; hoặc khi hành giả tu tập Chiết Hỏa Định , Song Vận Đạo , trong lúc sản sinh giác thọ của Tối Thắng Không Lạc Bất Nhị mà thấy được ánh sáng , lấy không lạc làm Du , nên cũng có thể gọi là Du Quang Minh .
Hành giả không những đem Khí Nhập – Trụ và Dung thông trong trung mạch , mà còn thấy được tám cảnh giới của lúc chết là Lâm Tử Bát Tướng đều hiển hiện , sau cùng thấy được ánh sáng chói lọi trong trời quang đảng trong tâm , đây mới là ánh sáng chân thật , nên gọi là Thực Nhgĩa Quang Minh .
Căn cứ theo nguyên lý của Vô thượng Du Già , hành giả đầu tiên đi vào sơ địa
của Mật Tông Bồ Tác , sau đó mới theo y thứ quang minh mà tu tập , thì mới có thể trực chứng cứu cánh Phật Quả được .

3.- QUẢ QUANG MINH :

Quả Quang Minh có được một công đức diệu dụng bất khả tư nghị , có thể khiến cho hành giả viễn ly sự đau khổ của sinh tử , chứng vào cảnh giới niết bàn ; có được quảng đại thần thông , có thể phân thân vô số , để phổ độ vô số chúng sanh hữu tình .
Nói một cách cụ thể , nhờ tu tập , hành giả khi đạt được thành tựu , kết hợp lại được Căn Quang Minh và Đạo Quang Minh , chứng được Thập Tam Địa trong Mật Tông Bồ Tác Đạo , tức Kim Cang Trì Địa . Lúc nầy là lúc hành giả đã thành Phật , lúc nầy ánh sáng hoàn toàn khai phát , nên sự ấn chứng ánh sáng lúc nầy gọi là Quả Quang Minh .
Do đó , ta thấy Vô Thượng Du Già bí yếu lấy sự ấn chứng ánh sáng cùng cực nầy để được giải thoát và được thành Phật vậy .

Mật Tông Tây Tạng Du Già Bộ nhận thấy rằng , trong lúc tu tập mật pháp , khi hành giả thấy được ánh sáng , thì lúc nầy khí đã hòa nhập trụ vào trong trung mạch , khiến cho nghiệp khí phàm phu chuyển hóa thành trí tuệ khí mà tiến vào mạch đạo trí tuệ , làm khai mở những gút kết che lấp Bản Tính Quang Minh ở luân xa tim ; nhờ thế ánh sáng nguyên thủy của tim là Tâm Quang được kích hoạt chiếu sáng ra . Bởi vì tự tánh của Ánh Sáng – Tâm Vi Tế – Phong Vi Tế và Ly Hý Minh Điểm đều giống nhau và là nhất thể vậy . Do đó , nói rằng trong lúc chứng được quang minh ánh sáng , thì hành giả cũng chứng được Phong Vi Tế hoặc Ly Hý Minh Điểm làm Thể và Lượng Đẳng Vũ Trụ , là pháp thân bất sanh bất diệt , lúc nầy những kết cấu thuộc tứ đại của nhục thân cũng biến hóa , tan rả và hoà nhập vào trong ánh sáng , cuối cùng trở thành Hồng Quang Thân , tức ánh sáng bảy màu của cầu vòng ; Nên sự chứng đắc được ánh sáng là mục tiêu truy cầu cao nhất để thành tựu Phật quả của hành giả Du Già vậy .
Tóm lại , bên trên là nói lên sự quan hệ giữa tâm và ánh sáng , cũng như ánh sáng của mặt trời và mặt trời vậy ; Nhưng căn cứ trên quan điểm của Vô Thượng Du Già Bộ , Tâm ở trong thân của mổi người là Ánh Sáng hoặc là bản chất của Không ; bởi vì Ánh Sáng và Không Tính không thể phân ly , tuy hai nhưng lại là một , chúng nó kết hợp thống nhất lại thành một chỉnh thể ; như vậy hành giả tu tập Du Già Mật Pháp mới có được kiến chứng ánh sáng , từ góc độ tu tập Thứ Đệ mà nhìn , kiến chứng được ánh sáng đồng đẳng với Sanh Khởi Thứ Đệ , và tiến tới tu tập Không Tính tức đồng đẳng với cấp bực Viên Mản Thứ Đệ vậy . Như thế nhờ liên tục tu tập , mà sanh ra Tuệ Giác vậy . Ngoài ra , trong quá trình tu tập , Ánh Sáng và Không Tính cũng đại biểu cho Hóa Thân và Pháp Thân của hành giả ; do đó , trong quá trình tu tập và cảm thọ , đã làm phát sanh ra bản chất ánh sáng của tâm , như vậy bản chất chân thật của tâm đả siêu việt qua nhất thiết nhị trùng tính , mà có thể biểu hiện ra tất cả những ảo tưởng biến hóa vô lường trong tâm của hành giả tu hành mật pháp , từ đó đã nói lên được tính chất nhất trí của Ánh Sáng và Không Tính vậy .
Giáo lý về Tâm và Ánh Sáng của Mật Tông Tây Tạng đã giúp cho hành giả mật pháp hoạch đắc được Bồ Đề Tâm , là nhờ tinh hoa bên trong giáo lý nầy có tiềm phục một sức mạnh thiên phú ; từ đó đã nói rỏ rằng Tâm của con người thực chất là một loại Không Tính , một loại Không của một thứ Trí Tuệ Thần Khiết cao tột vô lậu .
Để đạt được trạng thái nầy , hành giả tu trì Mật Pháp cần dự bị nhiều thời gian dùng để tu tập và quán tưởng .
Những trình bày trên , là tinh hoa cấu trúc bên trong của phương pháp hợp nhất giữa con người và Phật , tức Bổn Tôn Pháp ; trong quá trình tu tập , hành giả nhờ tranh thủ và duy trì được trạng thái nầy , mà không ngừng làm sạch và tịnh hóa tâm linh của mình .
Như vậy , hành giả khi tu tập Bổn Tôn Pháp cần nắm vững giáo lý của Tâm và Ánh Sáng , bởi vì nó là một tâm pháp giúp hành giả vững tâm tu trì trong suốt quá trình tu tập Bổn Tôn Pháp vậy .

Do Hội Viên Ánh Sáng – T2 – Úc Châu.
http://www.thegioibuangai.com
Biên Soạn
Thứ hai , 11 tháng 6 năm 2007

Mọi trích dịch hay copy xin ghi rỏ xuất xứ .

MẬT PHÁP TU TẬP ÁNH SÁNG VẤN ĐÁP

1.- Trong phương pháp quán tưởng của mật tông có chia ra hai bộ phận là Sanh Khởi Thứ Đệ và Viên Mản Thứ Đệ , ý nghĩa bên trong của nó là gì ?
Đáp : Là trong lúc bắt đầu quán tưởng hành giả cần quán tưởng hình ảnh của vật mà mình chọn để quán tưởng , cần phải quán thấy cho thật rỏ ràng và minh bạch ở trong tâm , trạng thái nầy gọi là Sanh Khởi Thứ Đệ . Còn Viên Mản Thứ Đệ là khi hành giả đã quán được hình ảnh nầy thật rỏ ràng và duy trì hình ảnh nầy trong tâm được thường hằng không bị tan mất , là hành giả đã đạt được đến cảnh Không Tánh Tự Tại , hành giả đã làm được Chỉ Quán Song Vận , Không và Hửu hòa nhập vào nhau , hành giả đã quán thông được Thắng Nghĩa Hữu và Tất Cảnh Không , thành tựu pháp môn Trung Đạo Quán vậy .

2.- Có cách nào để giúp hành giả quán tưởng được dể dàng không ?
Đáp : Có rất nhiều cách , nhưng tựu trung đầu tiên hành giả tu tập mật pháp cần đem tạp niệm , vạn niệm thu nhiếp thành nhất niệm , tức lấy niệm để tiêu diệt và làm ngưng tạp niệm , làm thống nhất tâm thần , được gọi là Định , sau đó hành giả buông thả toàn tâm -thân , đem nhất niệm biến thành Không niệm , nhất thiết giai không , đem tự ngả hòa nhập vào vũ trụ , biến làm một , lúc nầy thân khẩu ý được thanh tịnh . Trong quán tưởng hành giả dùng tay bắt ấn , miệng đọc chân ngôn , tâm quán Bổn Tôn và Chủng Tử Tự , để tam mật được thanh tịnh hầu đạt đến Tâm Không thường Tịch và đạt đến cảnh giới Tự Tánh Quang Minh vậy .

3.- Nhờ luôn quán tưởng ánh sáng trong tâm , thì ánh sáng giả nầy nhờ quán chiếu lâu ngày , thì ánh sáng giả nầy có thể biến thành ánh sáng thật hay không ?
Đáp : Có thể nói như thế , hành giả khi tu trì mật pháp đầu tiên cần tưởng tượng ánh sáng hoặc linh ảnh của Bổn Tôn , lúc đầu thì bản chất của ánh sáng và linh ảnh nầy chỉ là sự tưởng tượng của tư tưởng và là một sự giả định mà thôi ; nhưng nhờ tu tập quán tưởng lâu ngày , ánh sáng nầy sẻ biến thành ánh sáng thật , lúc nầy hành giả có thể không cần tưởng tưởng hay cố gắng gì hết , mà hành giả mổi khi có ý muốn thấy ánh sáng hay linh ảnh của Bổn Tôn thì ánh sáng hay linh ảnh nầy sẻ hiện rỏ ra ngay ,một cách tự nhiên ; đó là sự thành tựu của việc quán tưởng ánh sáng .
Thông qua quá trình tu trì ánh sáng , ánh sáng trắng sẻ tràn ngập toàn thân , ánh sáng trắng nầy sẻ được duy trì và luôn tăng trưởng trong thân của hành giả . Lúc đó ánh sáng vô thượng của vũ trụ sẻ đi xuống , chiếu sáng tràn ngập lấy ánh sáng của bản thân , cả hai hoà nhập vào nhau hóa làm một , lúc nầy hành giả sẻ cảm thấy tự thể quang minh ., tâm vô nhất vật , trong cảnh giới nầy , hành giả cần giữ lấy thái độ Vô Thủ Vô Xả , tức không để ý đến nó , tự nhiên nhi nhiên , thấy được ánh sáng cũng không sợ , không thấy được ánh sáng cũng không truy cầu , để mặc cho quang quang tương chiếu vậy .

3.- Minh Điểm thuộc vào phạm trù của ánh sáng ; vậy sự khác biệt của việc quán tưởng Minh Điểm ở trong tâm và việc thấy được Minh Điểm thật sự , hai loại minh điểm nầy khác nhau như thế nào ?
Đáp : Minh Điểm có hai loại : Một loại do hành giả tưởng tượng ra , còn loại kia do hành giả thật sự trông thấy được mà không cần tưởng tượng ra . Khi hành giả nhờ tu tập mà thấy được minh điểm thật sự chiếu sáng như mặt trời , thì dù hành giả có nhắm hay mở mắt cũng đều trông thấy được , minh điểm nầy khi to khi nhỏ ; hành giả khi trông thấy minh điểm nầy thì cần có thái độ không mong cầu , không chấp trước , vô thủ vô xả vậy .

4.- Giáo nghĩa Ngũ Phật Ngũ Trí và Lục Đại Vi Thể trong Mật Tông Tây Tạng có ý nghĩa gì ?
Đáp : Bất cứ tôn giáo nào cũng có một sự lý giải về bản nguyên của vũ trụ ; riêng về kinh điển Mật Tông có các học thuyết Pháp Giới Duyên Khởi – Chủng Tử Tương Tục ......là bản thể luận nói về Lục Đại Vi Thể .
Hành giả mật tông nếu chỉ cần thông qua niệm chú , kiến lập Mạn Đà La , Đàn Tràng thì không thể nào đạt được đến cảnh giới Tức Thân Thành Phật được , muốn đạt đến cảnh giới nầy , hành giả cần có được năm loại trí huệ tức Ngũ Trí Như Lai ( Pháp Giới Bản Tánh Trí – Đại Viên Mản Trí – Bình Đẳng Tánh Trí – Diệu Quan Sát Trí và Thành Tựu Sở trí ) của năm vị Thiền Na Phật ( Đại Nhật – A Súc Bệ – Bảo Sanh – Vô Lượng Thọ – Bất Không Thành Tựu ) . Khi hành giả đã có được đầy đủ năm loại trí tuệ nầy rồi , thì việc ăn thịt , uống rượu , làm việc nam nữ trong pháp tu Mật Pháp Song Vận Đạo của Vô Thượng Du Già Bộ , cũng đạt đến quả vị Bồ Đề ; Tuy nhiên để đạt được những loại trí tuệ nầy , hành giả cần phải có sự truyền dạy và hướng dẩn của một vị Thầy trong Mật Tông . Nếu không , thì những hoạt động trên sẻ trở thành những hành động tà dại , đồi trụy , dâm ô , đồi bại , làm bại hoại luân thường đạo lý và làm hư hoại tâm thân của những kẻ vô minh và cuối cùng đi đến tẩu hỏa nhập ma mà thôi .
Trong giáo nghĩa của Kim Cang Thừa , khái niệm của Ngũ Trí đã trở thành một nguyên tố tinh thần của hành giả tu hành Mật Tông , vì nó có đầy đủ tác dụng linh diệu và thần biến trong đó .
Còn về Pháp Giới Duyên Khởi – Chủng Tử Tương Tục...trong Lục Đại Vi Thể bản thể luận của Mật Tông là Pháp Thân của Đại Nhật Như Lai , nó cấu thành bản thể của thế giới vạn vật và là căn nguyên của sự tồn tại .

Do Hội Viên Ánh Sáng – T2 – Úc Châu.
http://www.thegioibuangai.com
Biên Soạn
Thứ hai , 11 tháng 6 năm 2007

Mọi trích dịch hay copy xin ghi rỏ xuất xứ .
SỰ PHÂN LY CỦA LINH HỒN VÀ THỂ XÁC

Chúng ta nhờ thông qua Trung Ấm , Chuyển Thức Thành Tựu trong Lục Thành Tựu Pháp của Mật Tông Tây Tạng , mà biết và có được một cái bản ngả khác ; Nhưng chúng ta cũng biết được trong giáo lý của Hiến Giáo và Mật Tông thường chủ trương Vô Ngã Luận , do đó cái Bản Ngả kia chỉ là biểu hiện của Tâm , nhưng Tâm thì không thể thấy và sờ mó được , vì nó vô hình vô tướng ; Nhưng Hiển và Mật Tông lại nhận rằng Tâm và Bản Ngả là đồng nguyên , Tâm ngã nhất thể . Như vậy cái Bản Ngã nầy là được nhận định trong cảnh giới nào ? Nó có phải là Tinh Thần được tồn tại trong nhục thể ; hay là Đệ Bát Thức hay chỉ là một thể Linh Hồn như mọi người thường gọi . Tín đồ Phật giáo cho Linh Hồn là Thức thứ tám của con người . Sự quan hệ của ba lớp thân vi tế của con người là Tâm tối vi tế và Phong tối vi tế là gì ? Còn Minh Điểm nữa , Mật Tông xem bản chất của Minh Điểm còn cao hơn A Lại Da Thức là thức thứ tám của con người nữa , vì khi Thần Thức của con người khi xuất ra khỏi thân xác thì cần lấy Minh Điểm làm Thân để có thể xuất ra ngoài .
Đồng thời với pháp tu Du Già ngày xưa của Ấn Độ , trong thuật tu luyện nội đan của Trung Hoa cũng có phương pháp Dương Thần Xuất Thể , so sánh với phương pháp Linh Hồn Giải thoát của thuật Du Già Ấn Độ cũng có những điểm tương đồng .
Dương Thần Xuất Thể của thuật luyện nội đan Đạo Gia Trung Hoa , còn gọi là Dương Thần Thoát Xác , ngày xưa gọi là Siêu Thoát . Phương pháp tu tập cụ thể là Dương Thần được hành giả dưởng dục nuôi nấng tại đơn điền , sau đó đưa dương thần theo các đường kinh mạch đi lên thượng đan điền ở nảo bộ , tại đây dương thần được dưởng dục trong ba năm , sau cùng hành giả có thể xuất nhập dương thần ra vào thể xác ; khi xuất ra tựa như cảnh giới siêu thoát của thái hư , khi thu vào thượng đan điền như nơi trú ngụ để tồn dưởng . Những lần đầu xuất dương thần cần từ tốn chậm chạp , không được gấp rút , không được xuất thần đi xa , mau thu trở về , sau khi xuất thần đã thuần thục thì mới có thể đi xa ngao du tam thiên đại thiên thế giới ; lúc đầu vì định lực không vững , nếu xuất dương thần đi xa , mà không thu trở về được , thì sanh mạng của nhục thân sẻ bị kết liểu ; tương truyền đạo gia Trương Bá Dương cùng một Thiền Sư cùng trổ tài xuất Hồn đi đến một vườn Hoa ở Dương Châu cách xa ngàn dặm . Khi trở về thì trên tay của Trương Bá Dương có cầm một cành hoa đã hái được trong vườn hoa ở Dương Châu , nhưng Thiền Sư thì đi về tay không ; điều nầy đã nói lên sự xuất hồn của đạo gia là sự xuất Dương Thần nên có thể mang đồ vật về , còn sự xuất hồn của vị Thiền Sư ki a là sự xuất Âm Hồn , nên không thể mang về vật gì được . Vì khi xuất dương thần thì người khác có thể thấy được hành trông giống như thể xác của họ , còn nếu xuất âm thần thì vô hình , người khác không thể trông thấy được , vì lúc đó hành giả chỉ xuất ý thức thể ra ngoài mà thôi ,vì ý thức thể nầy không được bao bọc năng lượng của thể phách và thể vía . Nên sự xuất dương thần của đạo gia cần tu luyện công phu và dài thời gian hơn , vì đạo gia cần phải luyện tinh hóa khí , luyện khí để hình thành đệ nhị xác thân , sau đó dùng thần và khí để nuôi dưởng đệ nhị xác thân nầy cho đến khi có đầy đủ chân tay mạnh mẻ trưởng thành , thì lúc đó mới có thể nhập chân thần vào đệ nhị xác thân nầy , mà xuất hồn – Dương Thần đi ra ngoài thể xác được .
Theo như sự thể nghiệm của Lạt Ma Tây Phương Lobsang Rampa , cư ngụ tại Gia Nả Đại khi xưa , ông nầy có thể xuất hồn , gọi là Linh Thể , hay còn gọi là Tinh Quang Thể , Thông Thiên Học gọi nôm na là Thể Vía , để đi bất cứ nơi nào trong vũ trụ hay có thể xuyên núi , xuống biển hay đi vào lòng đất cũng được , vì Tinh Quang Thể nầy không cần hơi thở và ăn uống , Tinh Quang Thể nầy nối liền với Nhục Thân bằng một sợi chỉ Bạc , nên ông có thể tự ý thu hồi Tinh Quang Thể nầy lúc nào cũng được , hay trong lúc xuất Tinh Quang Thể , mà nhục thân bị ai chạm đến thì Tinh Quang Thể sẻ bay trở về nhập vào nhục thân ngay lập tức . Tinh Quang Thể nầy có hình dạng giống nhục thân của nó , nhưng rất nhẹ nhàng , nhưng khi nó bay ra thì người thường không trông thấy nó được, vì nó là một dạng của âm thần . Những vị Lạt ma cao cấp của Tây Tạng thường dùng phương pháp nầy để có thể ngồi ở nhà mà có thể biết được chuyện của thiên hạ vậy .
Chúng ta biết được qua kinh nghiệm của những hành giả tu luyện thuật Du Già , tuy khí mạch của thân thể nhiều như lá cây của thân cây Bồ đề , nhưng chỉ có luân xa tim , lại có đến 101 đường kinh mạch tủa khắp ra , trong đó có một đường kinh mạch quan trọng chạy thông lên nảo bộ , con đường nầy được mệnh danh là Vỉnh Sanh Chi Lộ . vì hành giả có thể xuyên qua con đường nầy mà xuất hồn ra ngoài để được siêu thoát sinh tử .
Thuật Du Già YoGa có sự tương quan máu mủ với Mật Tông Tây Tạng , hai phái nầy đã nối thông Phạn Huyệt của Tâm Tạng và Phạn Huyệt của Đỉnh đầu bằng một thông hào đứng thẳng trong trung mạch , trong đó có sự lưu thông của Minh Điểm là trung tâm cảm thụ trong pháp tu của Mật Tông .
Trong pháp tu Đại Bi Quan Âm Phowa Pháp có nói rằng : Từ tim lên đỉnh đầu có một ống trung mạch , ống nầy ngoài màu trắng , bên trong thì màu đỏ , ống nầy trên thì thô , ở dưới thì nhỏ , có hình dạng như phần cuối của thân cây kèn loa - Trumpet ; mạch ống nối khởi lên từ giữa tim có tỏa ra bốn cánh hoa màu trắng , trên đó có một nguyệt luân màu trắng , trên nguyệt luân đó có một hạt Minh Điểm to bằng hạt đậu màu trắng đang chói sáng , đây là thể tập hợp tự thân bản thức của hành giả ‘ Khi hành giả tu tập được thành tựu phương pháp Phowa , hành giả cần tu thêm pháp Phật Trường Thọ Pháp , nếu không hành giả sẻ bị chết yểu đoản mạng ; nếu Minh Điểm xông ra đỉnh đầu mà hợp nhất với tâm của Bổn Tôn trên đỉnh đầu , thì sanh mạng nhục thân của hành giả sẻ bị kết liểu và lúc đó chỉ có linh hồn của hành giả được vảng sanh nơi Tịnh Thổ , không ai biết ....Hiện nay, có nhiều người tu tập theo Tịnh Độ Tông , mọi người đều niệm A Di Đà Phật , nhưng họ không biết gì ? Chỉ một lòng niệm hồng danh Phật ; nhưng khi đọc xong và biết được sự chuyển thức và cảnh giới trung ấm trong các pháp tu của Mật Tông , thì họ biết rằng cách tu của Mật Tông là một con đường dể đi và có hiệu quả nhất , để thoát ly sanh tử , thoát ly biển khổ để trực chỉ Bồ Đề , mà được vãng sanh Tịnh Thổ vậy .
Phương Pháp Chuyển thức Phowa có cả thảy mười mấy loại , nhưng nguyên lý cùng cơ bản tu tập đều đại đồng tiểu dị .
Từ trên cho ta thấy , như vậy bản nguyên của Tinh Thần có thể độc lập tồn tại và phân ly với nhục thể , và trong nhục thân nầy thực sự có sự tồn tại của Linh Hồn và Linh Hồn nầy , trước hay sau khi nhục thân chết nó vẩn tồn tại ( Thông qua sự ấn chứng của hành giả tu tập Trung Ấm Thành Tựu Pháp trong là một trong sáu pháp môn Du Già của Naropa ) và linh hồn nầy cũng có đầy đủ hoạt động của một người thường trong cảnh giới của nó .
Có một phương pháp Phowa khác , là Bạch Không Hành Mẩu Thiên Thức Pháp , phương pháp nầy , tương tự như phương pháp song tu của nam nữ ; là trong khi tu tập Bổn Tôn của hành giả là Bạch Không Hành Nữ đang bay ở trên đỉnh đầu của hành giả , lúc nầy Bạch Không Hành Nữ hai tay nâng hai chân lên , Liên Hoa của Bạch Không Hành Nữ hạ xuống đâm vào phần trên trung mạch ở đỉnh đầu của hành giả , lúc nầy Minh Điểm trong trung mạch của hành giả tuôn chảy vào Liên Hoa Cung của Bổn Tôn .
Như vậy sự thu hút của dị tính , không chỉ là hiện tượng của vật lý và sinh lý , mà trên lảnh vực tinh thần nó cũng có một sự tương hấp dị tính , có một nội dung hàm dưởng rất là sâu xa vi diệu .....
Ngày nay , sự tu tập thành đạt được Ảo Thân trong Mật Tông Tây Tạng , được xem là một thành tựu cao nhất , mà khoa học Thần Kinh , Tâm Lý Học , Triết Học ngày nay khó có thể giải thích nổi ...
Chúng ta nên biết đặc tính của Ảo Thân là có đủ đầu mình cùng chân tay , nhưng nó không có thực thể và các khí quan nội tạng , có máu huyết , xương thịt như người thường , nó được tạo ra từ thân thể máu thịt , nhưng lại là một xác thân khác với nhục thân , và nó có thể nhập làm một với nhục thân , nó được xem như là một “Nhục Thân” mới vậy .
Ảo Thân là do năm loại căn bản khí tạo thành , chủ yếu nhất là Tính Mạng Khí , nó không phải là ảo tưởng , nó là hình dáng sanh khởi của Bổn Tôn , do Phong Tâm Vi tế ( Trí Tuệ Khí ) hiển phát mà tạo thành .
Phương pháp Phowa là một phương pháp thẳng tắt , không thông qua quá trình trung gian , mà đem tối phong tâm vi tế là tâm khí từ nhục thể phân ly ra và xông lên đỉnh đầu , ảo thân chứng được các ánh sáng màu sắc của tám cảnh khác nhau , khi Khí đi qua các giai đoạn Khí Nhập – Trụ – Viên Dung vào trung mạch .Do đó , thân ánh sáng là do ngũ sắc quang tạo thành . Bản chất của ảo thân như hình trong gương , trăng trong nước , cầu vòng trên trời là hư không nhưng thanh thoát vậy .
Hình tượng Phật của Hiển Tông có 32 tướng tốt , 80 tùy hảo ; nhưng những tướng nầy từ đâu ra ? Hay là do con người tô vẻ thêm , tạo ra vẻ mỹ lệ trang nghiêm .
Nhưng khi hành giả tu hành Mật Pháp và đã chứng đắc được Ảo Thân , thì lúc đó hành giả , mới biết được Ảo Thân có 32 tướng tốt và 80 tùy hảo, ngoài ra nó còn có thể biến hóa vô số , để làm lợi ích cho chúng sanh ; do đó , Ảo thân thực sự là Sắc Thân của Phật vậy .
Như vậy , làm sao ta biết được sự tồn tại của Ảo Thân ? Vấn đề nầy thuộc phạm vi của nhận thức siêu cảm , chỉ có một mình hành giả khi chứng đắc được ảo thân nầy mới có thể biết và cảm thọ được sự tồn tại của ảo thân nầy mà thôi .
Khi Ảo thân được tu tập tăng tiến thêm , thì nó lại được chia ra làm Trọc Ảo Thân và Tịnh Ảo Thân ; Trọc Ảo Thân là tiền thân của Tịnh Ảo Thân . Trọc Ảo Thân xuất hiện khi đại lạc sản sinh , khi hành giả chỉ mới đạt đến sơ bộ cứu cánhcủa sự thể ngộ Thể Không . Chỉ khi nào hành giả đạt đến tám cảnh báo trước của các loại ánh sáng cận tử , mà loại ánh sáng cuối cùng là Du Quang Minh biến thành Chân Chánh Cứu Cánh Quang Minh , tức là Nghĩa Quang Minh , lúc nầy Trọc Ảo Thân sẻ giống như một cầu vòng bảy màu bay lên tan biến trong không gian , để từ đó có thể hiện khởi ra Tịnh Ảo Thân vậy .
Như vậy , khi hành giả từ trong đại lạc của thiền định , trực tiếp thể ngộ Không Tính , đả đạt được Tịnh Ảo Thân , lúc nầy hành giả đã tiêu trừ tất cả những chấp trước , giải thoát và tiêu trừ tất cả những chướng ngại trên đường tu ; như thế , khi chứng đắc được Ảo Thân , hành giả đả có thể từ trong hiện kiếp mà có thể đạt đến quả vị Phật vậy .
Chúng ta làm thế nào để biết được hành giả tu Mật pháp nào đã đạt được Ảo Thân ?
Không có được phương pháp nào để biết được hành giả nào đả đạt được ảo thân , vì người nào đã đạt được ảo thân thì thân thể của họ cũng trông giống như người bình thường , ta không thể nhìn biết được , bởi vì Tịnh Ảo Thân là một Thân Trí Tuệ tiềm ẩn bên trong tâm của người đó , nó là Chân thân của người đó , nó có sức thần thông biến hóa vô cùng , và chỉ có họ biết được mà thôi .
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:58 am

Như cổ nhân có nói Đại Ẩn , Ẩn Triều Thị ; Tiểu Ẩn Ẩn Sơn Lâm , tức những người thật sự có tài và cao nhân thì thường ẩn thân mình ở nơi chợ búa thành thị náo nhiệt và chỉ để lộ ra ngoài là một người tầm thường không ra gì , như Tế Điên Hòa Thượng hay những Gián Điệp , Đặc Công , Khủng Bố ngày nay vậy , không ai biết được họ ,vì họ cũng giống như người thường , có khi người nầy dùng những hành vi hạ tiện , thô bỉ hay dơ dáy để mọi người tránh xa không chú ý , để che mắt thiên hạ , hay họ dùng bộ mặt nhân từ đạo đức vô hại để làm nhàm chán mọi người , rồi để qua đó họ mới có thể hành động theo mục đích riêng cứu đời hay hại đời của họ vậy .
Vậy Ảo Thân là vật chất hay là phi vật chất ? Theo như Phật giáo thường nói , không rơi vào hai cực đoan hửu và vô , đó mới là trung đạo ; như vậy cảnh giới của minh tâm kiến tánh không ai có thể dùng lời nói mà nói ra cho được rỏ ràng . Trong thoại đầu của Thiền Tông có nói “Thấy núi và nước là núi và nước , sau đó lại thấy núi và nước không phải là núi và nước , cuối cùng lại thấy núi và nước thật sự là Núi và Nước vậy ” Loại tam đoạn luận nầy của Thiền Tông , ta cần phải tự thân đi thân chứng , tự giác ngộ , nếu không thì ta cũng không biết được gì nhiều hơn là trên mặt chữ trong kinh sách đã nói ra vậy .

Do Hội Viên Ánh Sáng – T2 – Úc Châu.
http://www.thegioibuangai.com
Biên Soạn
Thứ hai , 11 tháng 6 năm 2007

Mọi trích dịch hay copy xin ghi rỏ xuất xứ .
Chào Anh AnhSangt2,
Cám ơn anh rất là nhiều vì đã đăng bài những bài về Mật Tông. Bài quá hay và hoàn toàn đúng sự thật.

Thân
Nhật Nguyệt cùng các bạn Kính Mệ́n

Thông qua kinh nghiệm cùng ấn chứng của Nhật Nguyệt trong quá trình tu tập mà sau khi đọc biết bài viết có giá trị , và góp ý xây dựng , quả là một khích lệ cho AS cùng các bạn huyền môn khác . Công việc hoằng hóa chân lý huyền môn để phuc̣ vụ sự an lạc , khõe mạnh , hạnh phúc , sự thịnh vượng , sự an toàn cá nhân và gia đình cùng trật tự xả hội , đồng thời bài trừ mê tín dị đoan để giúp sự tiến hóa hướng thượng của mọi người được viên mản , là công việc chung của những người có tâm huyết , tình người và luôn tinh tiến để được mổi ngày được thức giác thêm lên ....hầu phục vụ tha nhân có hiệu quả hơn , hơn là những kiến thức nầy bị những định kiến của xả hội , những vô minh , những hành vi độc tài hay vì tư lợi mà bị một thiểu số người lợi dụng và bưng bít hầu ngu dân để nhân loại bị mê muội mà làm chậm đi bước tiến hóa của nhân loại .
AS hân hoan cộng tác và khuyến khích mọi người hảy xử dụng diển đàn nầy để cống hiến nhiều hơn những kiến thức cùng kinh nghiệm ấn chứng của mình cùng chia xẻ lẩn nhau thì mọi người cùng được lợi ích chung vậy .
Mọi việc đều trải qua quá trình thành , trụ , hoại , diệt , thì diển đàn nầy và những vị cao nhân hay đã đắc đạo thì dù có hay cách mấy cùng phải chịu sự chi phối của luật nầy .
Vậy hảy lợi dụng dịp may hiện nay nầy , hảy nhanh đóng góp công sức của mình , thì dù ta khi nhập Nết Bàn hay lên bảng Phong Thần , thì những dòng chữ ghi lại những kiến thức cùng những ấn chứng , kinh nghiệm tu tập và bí pháp của huyền môn của quý vị sẽ đi vào lòng người và lưu truyền vạn kiếp mà không bị thất truyền vậy .
Mong thay .....
AS-T2-Úc Châu Kính Bái ...
CÁC BẠN YÊU THÍCH TINH HOA CỦA MẬT TÔNG HẢY VÀO CÁC TRANG WEB SAU ĐÂY ĐỂ TINH TẤN TU HÀNH VÀ BỔ XUNG THÊM HÀNH TRANG HUYỀN HỌC CỦA MÌNH :

MẬT TÔNG THỜI LUẬN THỪA – KALACHACKRA

http://maytrang.org/kalachackra/kalachackra-05.htm

TÌM HIỂU THÊM VỀ VÔ THỨC VÀ PHOWA – DI HỒN

http://blog.360.yahoo.com/blog-eW8Oa...hZRe7XwJ0U?p=7


CHÚC MỌI NGƯỜI TINH TẤN VIÊN MẢN
TỰ GIÁC NHI GIÁC THA

AS-T2-ÚC CHÂU
thì ra là bác Pham Doan , cháu là 卐 Triều Bình 卐 đây , chúc bác an lạc
_________________
Nghe như tiếng sét bên tai , Điệp ơi ngày mai Lan cắt tóc ..
Anh AnhSang Mến,
Cám ơn anh đã khích lệ. Thật ra có nhiều cái trong cõi giới vô hình mình biết được nhưng nhiều khi cũng không nên phải nói ra hoàn toàn vì trời đất, vũ trụ đều có luật cả. Nhiều khi các thầy cũng muốn giúp cho chúng sanh lắm, muốn thố lộ nhiều điều về những cãnh giới khác để chúng sanh được học hỏi, nhưng có nhiều cái không thể nói được. Một trong những cái bằng chứng cụ thể là ngài Dusum Khyenpa, vị tổ thứ 1 của dòng Karmapa, Tây Tạng, khi ngài đã không nghe những gì mà Lão Phật Mẫu đã khuyên nhũ thì 3 tháng sau ngài phải đi thôi.

Cũng như ở trên anh đã sưu tầm và đã chỉ rõ ra những phương pháp tập Du Già Lục Pháp của Naropa, nhưng nếu một người nào đó không có thầy, và vị thầy đây phải là thầy có những kinh nghiệm trong Du Già Lục Pháp này hướng dẫn thì những hành giả thông thường khi tập những môn này chỉ có "Tẩu Hỏa Nhập Ma" mà thôi. Muốn tu luyện được những phương pháp này như Du Già Mộng, Du Già Thanh Quang, Du Già Viễn Thân, v.v... thì trước nhất phải thành tựu cho được Du Già Nội Hỏa. Một khi mà hành giả bật được ngọn Nội Hỏa, phóng ngọn nổi hoả lên qua những luân xa và nhập vào bản thể của Bổn Tôn, v.v... thì lúc đó là lúc bắt đầu hành giả có thể nếm được mùi của Du Già Mộng. Mặc dù Du Già Mộng có những phương pháp như quán tưởng những chũng tự như: "Ah, Nu, Ta, Ra", v.v... nhưng một khi đã tu luyện được nội hoả rồi thì khỏi cần những chũng tự này mà hành giả cũng có thể đi vào Du Già Mộng một khi hành giã đặt người xuống ngũ. Cái trạng thái này kỳ lạ lắm. Lúc đó thân vi tế và thân thô lậu tuy rằng 2 những cũng chỉ là một. Lúc thức mình cũng thấy được, mà lúc ngũ cũng giống y như mình thức tỉnh mà thôi. NN chỉ giải thích chút xíu để cho biết và cũng muốn nói rằng tu luyện theo Mật Tông phải có thầy và bổn tôn giúp đở, không thôi là tâm thần mình thay đổi như chơi. Đây thật sự không phải là chuyện giởn chơi đâu.

Còn cây sanh mạng "the Life Tree" của người Do Thái, mà NN thường thấy cũng vị Rabbi hay tu luyện, theo NN thấy thì cũng vị có quyền năng theo cấp bực của cái cây này cũng thuộc về hàng Tiên Gia giống như bên Đạo Gia của mình vậy thôi. Tuy thấy hùng hồn như vậy đó nhưng cũng không bằng bên Phật Gia. Những vị Rabbi này cũng có âm binh nữa. Những vị âm binh này thường là những anh chàng quỉ thần trong cái cây đèn thần của King Solomon. Những anh chàng quỉ thần này, thấy vậy đó nhưng binh lình nhiều lắm. Mình cũng có thể so sánh họ với những đạo quân của các thần Lục Đinh, Lục Giáp bên Đạo gia vậy đó. NN thấy có những cái Lodge của mấy người Tây Phương thờ một trong những anh chàng này nữa đó. Những sư đoàn tác chiến này trong cõi giới vô hình nhiều không thể nào kể xiết. Và còn nhiều, nhiều điều nửa nhưng có lẽ còn phải tuy "Duyên" mà thôi.

Thân

p.s.: Vị thiền sư mà anh kể chuyện ở trên thật sự chưa tu luyện đến nơi, đến chốn chứ không phải bên Phật gia chỉ có thể xuất "Âm Hồn" đâu. Một khi thân vi tế đã tu luyện thành rồi, nếu thân vi tế đó đi đến chổ nào đó mà chổ đó có mưa, thân thô lậu của hành giả cũng sẽ bị ướt như con chuột lột đó anh à. Và khi thân vi tế đi vào vườn hoa đẹp có hương thơm ngào ngạt của hoa thì khi tỉnh thức thân thô lậu của hành giả cũng phảng phất đâu đây mùi hương của hoa đó.
Anh AS thân kính!
Mấy hôm nay, tôi đã giành thời gian để đọc hết một lọat bài của anh đã đăng ở đây. Trước đó tôi cũng có đọc sơ qua và tôi hiểu là những bài viết này không thể đọc như bình thường được
Thật tình thì tôi cũng chỉ hiểu những cái chung và chỉ một phần nhỏ thôi. Tuy nhiên có một điều mà tôi cảm nhận được chắc chắn là cái tâm của anh thật tốt, tôi chỉ có thể nói như vậy thôi. Mong anh cứ vững bước trên con đường mình đã chọn.
Tôi có những tâm sự muốn trao đổi riêng. Anh có thể vui lòng cho tôi biết EMAIL. THÂN CHÀO
EMAIL của tôi lecongtoan6309442000@yahoo.com[/code]
_________________
Tôi như muốn giũ đi từng ngóc ngách
Bụi cuộc đời vây chặc lấy hồn tôi
Anh Nhật Nguyệt Mến

Cạ́m ơn những góp ý của anh , AS đồng ý với anh về những qui luật của vũ trụ , cùng những thiên cơ bất khả lậu , hay những mật pháp . Nhưng không phải vì thế mà những cao nhân và những vị Thầy Huyền Môn không thể bàn luận và không hành động được gì . Thực ra những qui luật của vũ trụ cùng những thiên cơ hay những mật pháp đều đả công bố ra ngoài đời từ lâu , ngoài những hình thức được giảng dạy trong các mật viện , nhưng một hình thức khác nó , do sự hạn chế của luật lệ xả hội hay thói quen tập tục của thế gian , nó đã được giảng dạy , diển tả ẩn dưới lớp áo huyền bí hay những ẩn dụ được lẩn lộn trong các chuyện thần thoại hay gần đây là trong các câu chuyện khoa học giả tưởng hay điện ảnh ......vấn đề là ta đọc có hiểu hay không và có giải mả nó được hay không ?
Thí dụ trong như Phật Giáo , lúc đầu khi ta tìm hiểu Phật Giáo thì ta sẻ nghe các Thầy giảng kinh hay nghe nói các pháp vô thường hay diệt khổ , cùng những nghi thức tụng niệm hay những kiến thức tín ngưởng dùng trong quan , hôn , tang tế vv..vvv...dần dần vì những nhu cầu tâm linh cá nhân cùng những căn cơ mổi người khác nhau , có người cảm thấy thoải mái với những kiến thức đó , có người lại cảm thấy những kiến thức đó không đáp ứng được nhu cầu tâm linh cùng những áp lực quá nặng của xả hội ngày nay , mà trong cuộc sống hay nơi sinh hoạt của họ có những trường hợp xảy ra cho tâm thân của họ có những hiện tượng tâm linh khó lý giải hay làm xáo trộn đời sống của họ nhưng khi những người nầy lại hỏi những Thầy trong chùa thì đa số đều được trả lời y theo kinh hay có trả lời như không có trả lời , hoặc lên các chùa trên paltalk có hỏi những vấn đề tâm linh , thì liền bị tránh né , hay được giãng giải theo y kinh không đáp ứng được những nhu cầu cá biệt hay không được nói cho rỏ ràng , hỏi việc nầy , thì được trả lời việc khác hay bị gạt ra hay bị bề hội đồng hay bị chụp mủ là phá hoại.....không tin lên paltalk đó hỏi thì biết ; do đó , những ngôi chùa đó chỉ thích ứng cho những người sơ cơ hay những người sinh hoạt trong xả hội hay những người làm ăn , vào đó để tìm sự thăng bằng tinh thần trong giây phút mà thôi .Có những ngôi chùa có mở những lớp ngồi thiền hay tu tập thì cũng dạy những pháp cơ bản mà thôi . Còn bên Công Giáo hay Tin Lành trên Paltalk , thì đa số chỉ để hội họp để vinh danh Chúa hay chỉ đọc những lời trong kinh thánh cho tín đồ nghe mà thôi , những nơi nầy cũng không đáp ứng thỏa đáng những nhu cầu tâm linh hiện đại cho tín đồ . Đó chỉ là những phản ảnh những thực trạng sinh hoạt tinh thần tôn giáo hiện nay . Nếu có nơi nào có giảng những kiến thức thực dụng , xin cho AS học hỏi ....
Do đó , những người có tâm linh bén nhạy hay những người có tâm huyết trí tuệ cầu đạo vi diệu phải tự mình tìm tòi học hỏi ở mọi nơi , có người bên Công Giáo hay Tin Lành phải tìm hiểu thêm sự giảng dạy tâm linh của Mật Tông Phật giáo hay Kabalah , Gnotic , Rosicrucian , Freemason hay các Sects tâm linh hướng thượng khác ; Vì song song với những giảng dạy có qui ước của xả hội tôn giáo hiện đại , bên cạnh đó luôn luôn có những sự giảng dạy có hệ thống của của những vi Thầy tâm linh huyền học̣ nửa . Nên xả hội con người nhờ đó mà được thăng bằng và tiến hóa . Nếu con người chỉ học được những giảng dạy qui ước của xả hội và tôn giáo qui ước thuộc xả hội đó , thì con người sống trong xã hội đó cũng giống như cá sống trong nước chỉ biết giang san dưới nước mà̉ thôi , chứ không biết thế giới trên đất liền và không gian vô tận bên ngoài .
Cũng như hội Thông Thiên Học , nhiều người chưa tìm hiểu tường tận thì đã cho là tà giáo hay đả bị Krishnamuti giải tán hội Thông Thiên Học , nhưng họ không biết rằn Bà Blavatski cùng đồng nghiệp đã truyền bá huyền bí học Đông Phương cho Tây Phương ở những thế kỷ trước , bà đả để lại hai bộ Giáo Lý Bí truyền – The Secret Doctrine cùng Nử Thần Lộ Diện – Isis Unveiled , là hai nguồn thông tin cho những nhà khoa học cùng những nhà tâm linh tham khảo cho những phát minh hay tu tập của họ ; ngoài ra trong thế kỷ trước nhờ những chân lý huyền môn được truyền dạy trong đó , đã kích thích được tinh thần khai phóng và tự do tâm linh của con người ,đả làm nẩy sanh ra những nhà cách mạng giúp dân chúng nơi họ sanh sống thoát khỏi sự áp bức của sự đô hộ độc tài cùng sự thống trị dựa trên ích kỷ cá nhân cùng lòng tham không đáy của những kẻ thống trị , nên vào thời kỳ nầy những hội viên Thông Thiên Học thường bị ám sát ; hiện nay các hội Thông Thiên Học vẩn được hoạt động mạnh ở khắp nơi Âu Á , nhưng đa số đả bị ảnh hưởng của các giáo quyền như Liberal Catholic , Ấn Độ Giáo .....các hội nầy chỉ cung ứng cho những người sơ cơ những kiến thức về những sự vi diệu của những kết cấu cơ thể vi tế bên trong và những cơ bản về huyền bí học , những trường huyền bí ngoài đời còn dạy nhiều pháp môn cao thâm và thực dụng hơn những giảng dạy bên trong các trường bí giáo của hội , ngoài ra những hoạt động khác của hội chỉ là những hoạt động từ thiện thông thường như những cơ quan thiện nguyện mà thôi , Những người sơ cơ của tất cả các tôn giáo có thể tìm học hay vào hội để có những kiến thức căn bản huyền học để làm hành trang cho tâm linh của mình , và sau đó nên rời khỏi hội để thăng tiến , nếu không chỉ là một cái máy phát lại những kinh điển và chân lý cứng nhắc huyền môn của thế kỷ trước và chôn mình trong vỏ sò ngục tù tâm linh nầy ; đa số những vị Thầy tâm linh của những Sects tâm linh Đông Tây khác trước kia cũng là hội viên của hội nầy , sau khi đả có đủ kiến thức huyền môn cơ bản , họ́ đã đi vào thâm cứu và thực hành tâm linh chuyên khoa , nên họ đả rời khỏi hội , mà mở những sects tâm linh thực dụng và cập nhật hoá phù hợp với nhu cầu tâm linh của con người trong thời đại ngày nay ; nhờ thế các mật pháp của những hội Mật Tông Phật giáo hay Kabalah , Gnotic , Rosicrucian , Freemason ....đả đượ́c giử gìn , tiết lộ và truyền dạycho công chúng ở ngoài đời , còn bên trong những tôn giáo hiện đại ngày nay , đã mất hết những mật pháp nầy theo thời gian vì những kìm kẹp của xả hội cùng luật pháp đương thời vậy . Vì bị những ức chế của tôn giáo thế quyền và luật pháp độc tài cuả xả hội dưới hình thức nầy hay hình thức khác , nên đa số hội viên Thông Thiên Học ngày nay bị tai tiếng là chỉ biết nói hay , nói giỏi nhưng không biết thực hành , trình độ huyền thuật và tâm linh thực hành còn dở hơn là những người theo Thầy của huyền học ở ngoài đời , họ chỉ̀ theo Thầy học vài năm là có thể hơn hẳn những người trong hội nầy . Chỉ có một số ít hội viên kỳ cựu của hội Thông Thiên Học còn lại trong hội , thì trình độ rất là cao , cả lý thuyết củng như thực hành , nhưng những người nầy bị ém tài không được trọng dụng hoặc không giúp đở tạo cơ hội cho họ giảng dạy , vì những pháp luật của xả hội hay những lực lượng mờ ám chi phối bên trong hay tự họ chỉ giử lấy trình độ tâm linh nầy cho riêng họ mà thôi , không muốn người khác hay hơn mình , dù người muốn học đó có muốn phục vụ xả hội chân chính cũng vậy , ho không muốn dạy ; nên những hội viên gạo cội khác vì lý do nầy đả rời khỏi hội và nhảy ra ngoài sinh hoạt lẻ loi theo lý tưởng cao cả của họ . Nhưng dù sao , hội Thông Thiên Học cũng đáp ứng được nhu cầu tâm linh cơ bản và thực dụng phổ thông của những người sơ cơ muốn đi vào con đường huyền môn .
Hội Thông Thiên Học có ba tôn chỉ như sau :

1.- Tạo một tình huynh đệ đại đồng , không phân biệt chủng tộc , tín ngưởng , phái tính , giai cấp hay màu da .
2.- Khuyến khích việc học hỏi và đối chiếu tôn giáo , triết lý và khoa học .
3.- Nghiên cứu những định luật thiên nhiên chưa giải thích được và những huyền năng ẩn tàng trong con người .

Muốn tìm hiểu thêm hảy vào các link như sau :

http://www.thongthienhoc.com

http://www.austheos.org.au

http://www.blavatskyarchives.org/

http://www.blavatsky.net/

Nên những hành giả nào có những bén nhạy tâm linh không bị những hỏa mù của những đòn tâm lý hù dọa bị satan , ma quỷ cám dổ , đi vào tà đạo hay bị tẩu hỏa nhập ma v..v...hay vì những hạn chế của phong tục tập quán cùng qui ước của xả hội đương thời mà rùn bước của mình ; Vì họ biết rằng mèo nào bắt được chuột là mèo giỏi , pháp nào giúp họ phát triển được trí tuệ , thân tâm an lạc hạnh phúc , khoẻ mạnh , thịnh vượng , hài hòa mọi nơi , vui trong lụ́c sanh ra và vui lúc bượ́c thế giới khác , là họ theo vậy .
Ta có sợ chết hay không sợ chết thì , cuối cùng tất cả cũng bị chết ; ngài Dusum Khyenpa sau ba tháng phải ra đi vì tiết lộ thiên cơ cũng nằm trong chương trình của thiên cơ vậy . Thế giới ngày nay nượ́c nào cũng có vũ khí tối tân , nhưng cũng vì thế mà thế giới nầy được cân bằng ; nếu thực sự có đời sống bên kia cửa tử như mọi người nghe nói mà tin hay vì những đột biến của những hiệ́n tượng tâm linh chưa được khoa hoc̣ sinh thể sống khám phá , thì nếu thế giới vì chiến tranh nguyên tử mà con người được đưa sang thế giới bên kia miển phí , thì chúng ta sợ gì , vì sống ở thế giới siêu linh không còn lo sợ miếng ăn manh áo nửa , ai tham gì cũng được , sung sướng còn hơn là thiên đàng của Hồi Giáo nửa , lúc đó chỉ nghỉ tới là được tất cả . Nếu mọi người trên thế giới trong tương lai đều được trường học phổ thông dạy cách phát triển và xử̃ dụng được thần thông , như các vị Thầy huyền môn giảng dạy hạn chế trong nơi bí mật và bất hợp pháp theo luật lệ đưng thời , thì lúc đó sẻ có một nền văn minh và một nền văn hóa cao cấp khác , và có thể phạm vi du hành của con người sẻ dể dàng và không tốn phí hơn ngày nay ; cũng như trong thế kỷ vừa qua sự phát minh ra hơi nước , máy móc . cơ giới , điện , điện tử , nguyên tử .....làm cho nền tảng đời sống của con người dựa trên nông nghiệp và săn bắn đều được tái phối trí và phân bố theo nền văn hóa và trật tự mới vậy .
Những thiên cơ bất khả lậu hay những điều không tiện nói ra , thì đương nhiên không thể nói ra trong các diển đàn công cộng hay trên yahoo hay paltalk , nhưng chúng ta có thể liên lạc riêng với nhau bằng email , điện thoại hay gặp mặt để trao đổi hay học hỏi , còn nếu cao cấp hơn nửa thì phải nhờ Thầy Hùng Sơn dạy cho cách xuất Thần để dự hội thảo toàn cầu định kỳ của phái Lâm Kinh Thần Vỏ Đạo trên thế giới cho hội viên của Thế Giới Bùa Ngải của chúng ta .
Hay Thầy Hùng Sơn và Admin hảy mở thêm hai phòng trên palktalk về room Thế Giới Bùa Ngải , một room cho công cộng và một room Thế Giới Buà Ngải có password riêng dành riêng cho hội viên TGBN trên thế giới có thể trực tiếp gặp mặt trên webcam mà bàn luận học hỏi lẩn nhau thì giá trị của diển đàn sẻ được nâng cao và phục vụ hữu hiệu cho hạnh phúc con người thì hay biết mấy vậy . Việc mở room quá dể dàng , không tốn kém , vì miển phí , còn về nhân sự thì Thầy Hùng Sơn và Admin có thể phân công cho các hội viên trên toàn quốc đảm trách mở room theo giờ của quốc gia mình , nếu room không có ai vào thảo luận hay giãng dạy thì các op có thể mở đỉa đả thâu sẳn những bài đã đọc lại từ các kiến thức huyền môn được đăng trong trang Thế Giới Bùa Ngải để những người sơ cơ có thể học hỏi ....nếu được như vậy thì room Thế Giới Bùa Ngải sẻ đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người Việt trên toàn thế giới và giúp cho các tôn giáo khác tránh được những câu hỏi quá tải hay quá nhạy cảm nầy , mà vì những lý do nầy hay những lý do thế quyền khác mà họ không tiện chính danh mà đáp ứng được.
Còn về Du Già Lục Pháp của Naropa thì hiện nay môn khí công Mật Tông có giảng dạy rỏ ràng , chúng ta có thể học hỏi từ trong sách Du Già và Giáo lý Bí Truyền Tây Tạng – Tibetan Yoga and Secret Doctrines của Evans Wentz ; cuốn Cơ Sở Mật Giáo Tây Tạng – Foundation Of Tibetan Mysticism của Lama Anagarika Govinda đã được Ông Như Pháp Trần Ngọc Anh dịch ra tiếng Việt từ lâu ở VN .
Các Mật pháp của Mật Tông đã được viết dưới dạng khí công rất dể hiểu , như Mật Tông Pháp Tinh Túy đã được Anh Phan Ha tuần tự đăng lên trong muc̣ sưu tầm và 20 quyển cùng loại hy vọng sẻ được anh MekongCư Sỉ phổ biến bằng tiếng Việt lên diển đàn hay trao đổi với những sách cùng giá trị với hội viên khác , thì quí biết mấy cho giới Mật Tông VN .
Vì những sách nầy đả được các vị đạo sư đã từng được quán đảnh đả viết ra cho mọi người tu học mà không cần quán đảnh ; nó đả giúp ích cho những người vì sự khó khăn và sự tốn kém , hoặc có thu nhập kém trong xả hội ngày nay , hay vì định chế xả hội nơi họ cư ngụ ngăn cấm , nên họ khó tìm được minh sư , hay sách hay , vì những sách nầy từ lâu đã được giới tìm học Mật Tông Tây Phương tu học từ lâu , mà không cần quán đảnh , nay đả được các giới Mật Tông Trung Quốc sưu tầm ở Tây Phương , Đông Nam Á , Nhật Bản ...và tổng hợp những pháp môn Mật Tông thất truyền tại Trung Quốc qua những kỳ chiến tranh để hình thành một môn Khí Công Mật Tông hay Tạng Mật Khí Công để phổ biến cho nhu cầu khí công bảo vệ sức khõe và phát triển thần thông cho dân chúng Trung Quốc .Mặc khác nhữ́ng sách nầy cũng giúp ích rất nhiều cho những người đã được quán đảnh có thêm tài liệu rỏ ràng để thâm cứu và tinh tấn thêm . Song song vào đó giới huyền thuật Trung Quốc cũng có mở những lớp dạy buà chú huyền thuật hay ra VCD , DVD giảng dạy huyền hoc̣ cho những người muốn tìm học cũng được phép mở lớp giảng dạy tùy nơi có nhu cầu , thêm vào đó chính quyền Trung Quốc cũng phổ biến bằng báo chí , sách vở , TV hay phim tuồng để bật mí những Phương Thuật lường gạt của giới giang hồ thuật sỉ trong xả hội phong kiến ngày xưa còn rơi rớt lại để bài trừ mê tín dị đoan và trả lại bộ mặt chân chính hành hiệp giúp đời của những giang hồ ẩn sỉ Trung Quốc ; Tức nền văn minh qui ượ́c phục vụ con người có đời sống bình thường tại thành thị , và nền văn minh cổ truyền huyền bí chân chính phục vụ cho lớp dân nghèo nông thôn đồi núi xa thành thị vậy .
Nên hiện nay tại các quốc gia trên thế giới đều có giới huyền môn của người Việt Hoa ở lẩn lộn vào trong cộng đồng của họ , họ đều lào thông huyền thuật của Mật Tông và phương thuật của Đạo Gia . Chứ không phải như là hình ảnh xấu xa thêu dệt quá mức , để tạo ra hình ảnh của những tên chệt hay những tên ba tàu đuôi sam bụng phệ xấu xa , hay những hình ảnh đồng bóng cúng kiến của những pháp sư giả tạo của một thời phong kiến , từng được tuyên truyền và giảng dạy của môn lịch sử thuộc địa , mà môn nầy đả từng một thời bị ảnh hưởng và bóp méo của chiến lược toàn cầu , của Tây Phương tấn công và tiêu diệt tinh hoa huyền học và văn hóa Đông Phương mà Trung Hoa và Ấn Độ làm đại biểu .
Vì những kiến thức nầy là thuộc về nhân loại , mà Trung Hoa và Ấn Độ đả có công gìn giữ và phát triển nó .
Còn về Do Thái Bí Giáo Kabalah hay huyền học Tây Phương Solomon hay Ai Cập hoặc các huyền môn khác cũng cùng chung nguyên tắc đó cả . Vì Tâm thân của con người ở đâu cũng giống như vậy mà thôi và những năng lực huyền bí của vũ trụ đều có cách gọi và cách đáp ứng riêng rẻ tùy theo pháp môn và phương cách mời gọi hay khơi dậy của nó vậy .
Về việc xuất dương hồn hay âm hồn thì tùy theo hành giả có tu tập hay không mà thôi . Hơn nửa theo Phật Giáo Hiển Tông và Thiền Tông .......cho xác thân nầy là giả tạm , không chủ trương trường sinh bất tử và không chấp nhận ý thức cá thể có thể tái sinh trong một cơ thể mới , nên những hành giả bên Phật Giáo hiển tông .... thường tu tập để được siêu thoát về miền cực lạc , nếu có tái sinh cũng tái sinh với một tâm thân mới , nên đa số không có ai tu tập như bên Đạo Gia và Mật Tông Tây Tạng đâu .
Còn trường hợp ảo thân ở ngoài bị ướt vì mưa thì xác thân ở nhà cũng bị ướt là hành giả trình độ còn thấp ; còn hành giả có trình độ cao thì ảo thân của họ biến hoá khôn lường súng đạn không phá vở nổi , chỉ khi nào biết đến nơi ẩn dấu xạ́c thân cuả hành giả nầy và tiêu hủy xác thân của họ thì ảo thân của họ mới bị biến mất mà thôi , đương nhiên khi ảo thân của họ khi gặp mưa hay nóng thần thức cũa cũng họ biết và lạnh và nóng vậy , nhưng không làm ảnh hưởng đến xác thân cuả họ được đâu .Vì việc nầy đã xảy ra tại Tru g Hoa khi quân Nhật chiếm đóng , các Thuật Sỉ cao cấp xuất Dương Thần để tạo những ma quỷ quấy phá lính Nhật , thì lính Nhật gọi điện về Đông Kinh hỏi cố vấn , thì Nhật cũng là một quốc gia có huyền học tâm linh cao , nên họ kêu hảy giết hết tất cả nhữngngười trong làng có ma quỷ hiện ra quấy phá là xong’ sau khi mọi người trong làng bị giết sạch , thì ma quỷ không hiện ra nửa , vì vị Thuật Sỉ đó đả bị giết chết , nên không có nguồn năng lực nuôi dưởng để dương Thần ra nửa , như hết sáp đèn cầy thì lửa sẻ bị tắt vậy . Còn có một trường hợp cao cấp nửa là khi dương thần đả có thể xuất ra và tự tồn rồi , thì xác thân của hành giả sẻ không quan trọng nửa , vì dương thần nầy có thể nhập vào bất cứ thân xác của người phàm nào để hành đạo trong một thời gian ngắn sau đó lại ung dung thoát ra một cách dể dàng vậy . Đó cũng là một mục tiêu lý tưởng cho con người hy vọng có thể đạt đến khi còn thụ dụng được nhân thân nan đắc nầy vậy . Nếu sớm thành công thì con người sẻ hết đau khổ và lòng tham không đáy của con người sẻ được thỏa mản theo nguyên tắc làm theo năng lực mà hưởng theo nhu cầu vậy ....

Thân chào

AST2UCCHAU
Anh Toàn thân mến ,

Cám ơn anh đã dành thời gian đọc bài của AS , bài viết của AS rất chọn lựa để đăng , nên viết một bài cũng tốn khá nhiều công sức và thời gian , vì bài viết cần hội đủ các điều kiện tinh túy , thực dụng , khai phóng , cùng xen vào đó các kinh nghiệm ấn chứng của mình cùng những vị Thầy Huyền Môn khác mà AS có được , nên nó rất gần gủi và có ích cho những hành giả đang đi trên nửa chặng đường tâm linh trước mắt ; nhưng những bài viết nầy sẻ bày ra trước mắt những vị sơ cơ những phương pháp tu tập tâm linh thực dụng mà ngày xưa khó có dịp thấy được , để những vị nầy có sự hứng khởi tuần tự nhi tiến trong sự tu tập của mình cùng thâu thập thêm kiến thức huyền học cho hành trang tâm linh của mình ; nhưng nó củng khó thể hiểu ngay cho những người ngoài cuộc , mà thói quen của họ đã quen dùng đầu óc logic để suy nghỉ , vì tâm thức của họ thường dong ruổi bên ngoài bởi qui ước của xả hội và chưa có dịp soi rọi tâm thức của mình vào thế giới bên trong với văn hóa vô tự chân kinh và còn xa lạ với những trường lực sinh thái và những trường thông tin của thế giới tâm linh bên trong , nên đôi khi những kiến thức nầy có thể là những trò cười giúp vui hay cũng làm thỏa mản một phần nào những tò mò tâm linh cho những vị nầy , vì thế cũng được thoải mái thư giản đôi phút , và giải tỏa vài căng thẳng trong cuộc sống .
Biển học mênh mông , đời người ngắn ngủi , và bấp bênh vô thường , với tinh thần vô úy và tâm vô quái ngại hay không cố chấp , hảy làm những gì mình thích trên thế gian nầy với một trí huệ tinh tấn , khi tâm thân còn sáng suốt và khõe mạnh , một khi đi sang thế giới bên kia , dù ta lên thiên đàng , đọa địa ngục hay tâm thân đả tan rả ra thành những năng lượng vi tế của vũ trụ , thì ta cũng khó mà xen vào công việc của trần thế , nếu không còn duyên nợ , hay có những điều kiện cần và đủ của sự rung động vi tế đồng bộ , vì ở đâu cũng có những qui luật căn bản và những hạn chế của nó . Nếu không có những năng lực tâm linh siêu việt thì khó mà thông hành xuyên qua các cỏi nầy . Vậy chúng ta cùng nhau hảy xử dụng tấm thân Nhân Thân Nan Đắc nầy , để thực hiện điều nầy trước khi quá trể nhé ....
Với đôi dòng thô thiển vì kinh nghiệm và sức học có hạn , mong được cùng anh Toàn và mọi người trao đổi và học tập , vì con én không làm được một mùa xuân , với công sức của mọi người thế gian nầy sẻ tươi đẹp , hạnh phúc và tình người hơn .
Email của anh Toàn không hoàn chỉnh , nên tôi không thể liên lạc với anh được . Anh có thể gởi cho tôi qua email sau đây : vanphaphuyenmon@yahoo.com

Thân chào
AST2UCHCHAU
Anh AnhSang Mến,
Cám ơn anh nhiều đã giải thích tận tường những vấn đề cho NN hiểu rõ thêm. NN chỉ mong một điều những ước muốn của anh sẽ thành sự thật. Qua cách viết của anh NN thấy anh là một vị học giả uyên thâm và cũng là một người rất có nhiệt tâm muốn cho thế giới này biết rõ về thế giới tâm linh huyền bí. NN cũng cầu chúc cho những gì anh ước mơ điều thành hiện thực.

Thân
love_tamlinh
Kính huynh ANHSANGT2,

Đa tạ những chỉ giáo của huynh giúp tiểu đệ hiểu rõ về các Đại Pháp mà huynh có công đức sưu tầm được

Nếu chịu khó xem kỹ và xem bằng một cái tâm trong sáng thì sẽ thấy những bài viết của anh AS chứa đầy tâm huyết, nặng lòng với tha nhân. Trong đó cái "sợi chỉ xuyên suốt" toàn bộ là một sự chiêm nghiệm và ấn chứng của tự thân mà viết ra và tất nhiên là cũng không thể thiếu những tài liệu sưu tầm cần thíết để bổ sung cho bài viết .
Rõ ràng là một khi con người ta đã tường tận mọi ngóc ngách của tâm hồn mình, cũng như thấu hiểu lẽ đời thì sẽ nảy sinh ra lòng thương yêu và cảm thấy như gắn bó với mọi người.
Hãy biết nhìn nhận và trân trọng tấm lòng này để gây thêm niềm hưng phấn trong anh hầu đón nhận những bài hay hơn nữa
Thế mới biết làm người thật khó, mà một trong những cái khó nhất là " biết mình biết người", nên chi ta nên sẵn lòng và nhẹ lòng để học người nếu như ta không bằng họ.
Cảm ơn anh đã cho tôi một cái nhìn mới hơn về đời về người
_________________
Tôi như muốn giũ đi từng ngóc ngách
Bụi cuộc đời vây chặc lấy hồn tôi

Le Cong Toan
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Sponsored content





SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  - Page 2 I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2
 Similar topics
-
» SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI
» ĐẠI VIÊN MẢN VÀ ĐẠI THỦ ẤN
»  YÊN TỬ CƯ SỈ – ĐẠI SƯ TRẦN ĐẠI SỸ
» NHIẾP THẦN ĐẠI PHÁP -BẾ HUYỆT ĐẠI PHÁP -LÔI TÂM CHƯỞNG -NGŨ LÔI CHƯỞNG PHÁP- CHƯỞNG TRUNG PHÙ
» HƯƠNG VỊ CUỘC SỐNG

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ TÂM LINH - NGOẠI CẢM - HUYỀN BÍ HỌC - HUYỀN THUẬT . :: KỂ LẠI KINH NGHIỆM TÂM LINH CỦA MỌI HÀNH GIẢ TÂM LINH ...-
Chuyển đến