Rāja Yoga được gọi là Du già bát bộ. Nó bao gồm tám chi phần. Năm chi phần đầu tiên được ta biết là Yoga Dự bị, tức Du già ngoại môn (Bahiranga Yoga). Mục đích của chúng là làm yếu đi những sự xao lãng gây cho ta đau khổ vốn tạo ra những cơn bão táp trong các lượn sóng của tâm thần ta.
Ta hãy tưởng tượng có một tòa nhà, đó là Tòa nhà Rāja Yoga hoặc Ngôi nhà Du già. Hai chi phần đầu tiên của Yoga tạo thành nền mống của tòa nhà. Ta biết chúng là Yama và Niyama. Chúng có bản chất luân lý và đạo đức.
Chi phần thứ nhất, Yama bao gồm năm giới cấm, ta có thể so sánh chúng với việc chuẩn bị hoặc dọn sạch mặt bằng, dẹp bỏ rác rưới ở địa điểm xây dinh thự. Yama bao gồm cấm bạo hành (ahimsā) cấm giả dối (satya) cấm trộm cắp (asteya) cấm dâm dục (brahmacharya) và cấm tham đắm (aparigraha).
Dĩ nhiên chúng ta có thể bảo rằng ‘Nhưng tôi đâu có bạo hành. Tôi đâu có trộm cắp v.v. . . Nhưng có lẽ liệu phải chăng chúng ta đang làm những điều đó trong tư tưởng? Liệu ta có nghĩ tới những tư tưởng bạo hành chăng? Liệu ta có thấy giận dữ chăng? Chúng ta không phải là những kẻ mê đắm tình dục. Nhưng liệu đôi khi chúng ta có nghĩ tới tình dục chăng?
Trên đường hành hương, hai tu sĩ Thiền phải băng qua một con sông ở chỗ nước cạn. Một thiếu nữ cũng muốn băng qua sông nhưng nó quá sâu đối với cô và cô đang tuyệt vọng. Người tu sĩ già ẳm cô lên và mang cô qua bờ bên kia. Người tu sĩ trẻ xúc động mạnh đến nỗi có một lúc chẳng nói được nên lời. Thế rồi y bèn hỏi người tu sĩ già: ‘Sư huynh là một tu sĩ mà sao lại chạm vào một người phụ nữ?’ Người tu sĩ già trả lời: ‘Sư đệ thân mến ơi, ta đã đặt cô ta xuống bờ bên kia rồi mà sư đệ vẫn còn mang cô ấy đến tận nơi đây!’
Các Yama cũng được biểu hiện một cách tích cực thành ra sự dịu dàng, trung thực, sòng phẳng, điều độ và hào phóng.
Chi phần thứ nhì của Yoga là Niyama tức giới luật tự giác. Sau khi đã dọn sạch mặt bằng để xây dựng tòa nhà đến một mức nào đó bằng Yama. Giờ đây ta bắt đầu dùng Niyama để xây dựng nền mống của tòa nhà Du già.
Niyama là: thanh khiết (saucha) hài lòng (samtosha) giới luật tự giác (tapas) tự biết mình (svādhyāya) và sùng tín với Thượng Đế (Ishvara-pranidhāna).
Như vậy hai chi phần đầu tiên có bản chất luân lý và đạo đức. Chúng có liên quan tới cách cư xử đúng đắn trong đời sống hằng ngày. Mục đích của chúng là giải thoát chúng ta ra khỏi sự xao lãng xuất phát từ những mong ước cá nhân của ta, từ sự ích kỷ của ta. Thật đáng ngạc nhiên khi có tồn tại cái gọi là những hệ thống Yoga mà lại không khăng khăng nói tới tầm quan trọng của luân lý và đạo đức. Nhưng những hệ thống như thế không thể dẫn tới mục đích Nhất Như. Mục đích của chúng thật ra cũng không phải là Nhất Như mà té ra là chẳng hạn như đạt được thần thông. Nhưng nếu chúng ta không xây dựng nền mống kiên cố thì Tòa nhà Du già của ta có thể sụp đổ. Trong ngụ ngôn của thánh kinh có nhắc ta nhớ tới việc người xây nhà trên đá và người xây nhà trên cát.
Chi phần thứ nhất và thứ nhì của Rāja Yoga có tính cách đạo đức và luân lý. Còn chi phần thứ ba, thứ tư và thứ năm có thể gọi là có tính cách chuyên môn. Chúng được dùng để xây dựng những bức tường của Tòa nhà Du già của ta, để che chở cho chúng ta khỏi bị những xáo trộn từ bên ngoài, cũng như là những cửa sổ và cửa ra vào chỉ cho phép lọt vào những gì mà ta muốn nhận vào.
Chi phần thứ ba của Yoga là āsana – việc rèn luyện cơ thể - tương ứng với điều mà người Tây phương ngày nay (và thường là ở Ấn Độ) gọi là Hatha Yoga. Āsana được dùng để giải thoát con người ra khỏi những xao lãng xuất phát từ cơ thể chẳng hạn như từ dây thần kinh. Theo quan điểm này, điều cần thiết trong Rāja Yoga chỉ là một tư thế của thể xác vốn thoải mái và vững chắc cùng với những phép tập luyện dẫn tới tư thế đó sao cho người ta có thể quên đi cơ thể, sao cho nó tĩnh lặng mà không hôn trầm. Như vậy những bức tường trong tòa nhà của ta mới bền vững và chúng ta mới sống thoải mái bên trong bức tường đó.
Chi phần thứ tư là Prānāyāma, vốn có dính dáng tới việc thở. Ở đây ta mở những cánh cửa sổ tòa nhà của ta để thở cho thích đáng. Có những phép tập thở quá trớn vốn có thể mang lại thần thông. Nếu chúng ta sa đà vào những phép tập luyện đó thì chúng ta đang mở những cánh cửa sổ trong tòa nhà chúng ta ra để đón một cơn bão lốc tràn vào! Nhưng theo quan điểm của Rāja Yoga thì điều cần thiết chỉ là một phép thở đều và sâu. Mục đích của Prānāyāma là giải thoát ta ra khỏi những xao lãng gây ra do việc thở: Chẳng hạn như ngăn cản không cho ta thở quá nhanh hoặc quên mất việc thở.
Chi phần thứ năm của Rāja Yoga là kềm chế các giác quan (Pratyāhāra) giống như một con rùa co rút tay chân lại bên trong cái mai rùa. Mục đích của Prātyāhāra là giải thoát ta ra khỏi những xao lãng bắt nguồn từ những ấn tượng của giác quan, nghĩa là từ những điều ở bên ngoài và được các giác quan truyền tới cho ta. Những cửa ra vào trong tòa nhà của ta có thể biểu diễn cho Prātyāhāra.
Giờ đây ta xây dựng tới cái mái của Tòa nhà Du già, tức đẳng cấp được phong thần: ba chi phần cuối cùng của Rājā Yoga là: antaranga tức Yoga nội môn, tức tam muội gồm có: dhāranā (định trí), dhyāna (nhập thiền) và samādhi (thống nhất).
Dhāranā tức định trí được mô tả như sau: ‘giới hạn tâm trí bên trong một phạm vi trí tuệ hạn hẹp (vốn là đối tượng của sự định trí)’ (III.1). Điều gì cản trở sự định trí? Hiển nhiên đó là những xáo động và xao lãng bắt nguồn từ những xúc động, những mong ước, cơ thể và những sự vật ở thế giới xung quanh ta do giác quan truyền dẫn. Những sự xúc động này đã phải bị quét sạch qua năm chi phần đầu tiên của Du già bát bộ.
Nhập thiền được định nghĩa là: ‘Dòng chảy không ngưng nghỉ (của tâm trí) hướng về đối tượng (được chọn để tham thiền)’ (III.2). Trong khi định trí thỉnh thoảng còn có sự xáo động, còn trong khi nhập thiền thì không còn sự xáo động nữa.
Samādhi, chi phần thứ tám và chi phần cuối cùng của Yoga chính là ‘Nhập thiền khi chỉ có ý thức về đối tượng tham thiền chứ không có ý thức về bản thân (nghĩa là không có ý thức về chính tâm trí)’ (III.3). Sự nhận thức thông thường bao gồm ba thành phần: chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức và hành vi nhận thức. Ngữ pháp diễn tả những điều này là chủ từ, túc từ (tân ngữ) và động từ. Trong Samādhi cả ba chỉ là một. Chúng ta không còn cản trở sự nhận thức của mình nữa, chúng ta không còn tắm mình trong ánh sáng của chính mình nữa. Đây là sự nhận thức toàn bích, tri thức toàn bích: hiệp nhất với bản thể của đối tượng tri thức. Và vì xét về bản thể, xét về bản chất cốt yếu vạn vật đều là một cho nên điều này có nghĩa là hiệp nhất với vạn vật.
Giờ đây ta đã đạt tới mái nhà. Ta hãy tưởng tượng ra một nóc mái bằng, trên đó ta có thể đứng trong ánh sáng mặt trời và hưởng được một tầm nhìn không bị ngăn trở trên mọi hướng, cùng một lúc thấy được mọi thứ. Khi ta đi bộ trên mặt đất, có lẽ ta thấy một ngôi làng, những cánh đồng, một khu rừng, cái này nối liền sau cái kia. Nhưng từ một đỉnh núi hoặc một máy bay ta thấy tất cả những thứ đó cùng một lúc.
Như vậy trong Samādhi ta hiệp nhất với mọi người, với vạn vật. Và ‘Chủ thể tri kiến được xác lập qua bản chất căn cơ và cốt yếu của riêng mình’ (I.3).
Ta cần nêu rõ rằng mặc dù tám chi phần của Yoga được đề cập theo một thứ tự nào đó, nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không được phép hoặc không thể thực hành bất cứ chi phần nào – đến mức tối đa – chừng nào ta chưa hoàn toàn làm chủ được những chi phần phía trước. Bằng không thì ta sẽ phải làm việc trong nhiều kiếp ở mức Yama và Niyama. Nhưng mặc dù bất toàn về mặt Yama và Niyama, ta vẫn còn có thể thực hành chẳng hạn như Āsana, Định trí v.v. . . đến một chừng mực nào đó. Nhưng ta chỉ đạt được một mức toàn bích trong mỗi giai đoạn sau khi ta đã đạt được một mức tối thiểu nào đó về mặt hữu hiệu trong những giai đoạn trước đó.
Cuối cùng ta hãy xét tới một số định nghĩa thêm nữa của Yoga:
Yoga là hệ thống giới luật đưa con người tới mức hiệp nhất với thực tại (Christopher Humphreys)
- Yoga là khoa học giải tỏa những chướng ngại tâm lý vốn cản trở con người thấu hiểu bản chất chân thực của mình và mục đích của kiếp sinh tồn (E. Gardner)
- Yoga là tài khéo khi hành động (phương tiện thiện xảo) (Chí tôn ca I.50)
- Sự thăng bằng được gọi là Yoga. (Chí Tôn Ca, II48)
- Yoga là Sống và Chết (Katha Upanishad)
Như vậy Yoga là một sự bắt đầu mới, là sự khám phá ra một chiều đo mới. Con phượng hoàng lại phục sinh từ đống tro tàn. ‘Nếu một hạt lúa không rơi xuống đất và chết đi thì nó chỉ sống còn một mình; nhưng nếu nó chết đi thì nó sẽ tạo ra nhiều kết quả’. (Thánh thư John, 12:24).
----------------
http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20chieu%20do%20sau%20sac%20hon%20cua%20yoga.htm