CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa Empty
Bài gửiTiêu đề: Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa   Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu Jan 19, 2012 5:57 am


Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa

Six Yogas of Naropa
&
Teachings on Mahamudra
Garma C. C. Chang.

Snow Lion 1986
Readings on

The Six Yogas of Naropa

Glenn H. Mullin.
Snow Lion 1997

Sáu Yogas của Naropa
Nguyễn An Cư và Trùng Hưng dịch
Thiện Tri thức, 2003



Nội Dung

Vào đề *

Phần I.

Giáo Lý Đại ấn * Bài Ca Đại ấn

Lời Nguyện Đại ấn *
Những Cơ Bản Thực Hành Đại ấn

Phần II.

Tóm Lược Dẫn Nhập
Con đường Thậm Thâm
Sáu Yogas của Naropa *

Phần III.
Những Bản Văn
Sáu Yogas của Naropa

Giáo Huấn Khẩu Truyền
Sáu Yogas của Naropa

Những Câu Kệ Kim Cương
Truyền Thống Thì Thầm Nơi Tai *

Bản Chép Tay Con đường Thậm Thâm
Sáu Yogas của Naropa :
Nguồn Tài Liệu
Của Mọi Chứng Ngộ *




Six Yogas of Naropa
&
Teachings on Mahamudra
Sáu Yogas của Naropa

Vào đề
Nếu huyền học được định nghĩa với nghĩa rộng như : “ Giáo Thuyết nói hiểu biết trực tiếp về Thượng đế hay thực tại tâm linh . Có thể đạt được qua trực giác tức thời ” . Mật giáo Tây tạng cũng được xem là một hình thức huyền học . Vấn đề ở đây là : Dĩ nhiên, những từ : “ Hiểu biết ” , “ Thượng đế ” , “ Thực tại tâm linh ”, và “ Trực giác ” phải được hiểu theo nghĩa nào .
Một phân tích cẩn trọng về sự sử dụng những từ này . Ngay tức khắc liền mở ra những quan niệm phức tạp và khác biệt . Nhưng thường thì không có sự hiểu thống nhất tức thời . Dù bề ngoài có rất nhiều hình thức tương tự như huyền học và giữa chúng có những sự khác biệt lớn lao .
Nhưng muốn chỉ ra những khác biệt trong chi tiết . Sự hiểu biết triệt để mọi hệ thống và sự trãi ngiệm nghiệm cá nhân về mỗi hệ thống như nhiều nhà huyền học đã chứng nghiệm thật rất cần thiết . Những đòi hỏi này quả thật rất khó khăn . Nếu không nói là không thể đối với tầm mức cá nhân ngày nay .
Thế nên , mục tiêu của tác giả không phải là : Làm một nghiên cứu hay bình phẩm về Mật thừa Tây tạng đối lại với những hình thức huyền học khác . Đây chỉ là giới thiệu với độc giả bình thường vài bản văn quan trọng cho đến ngày nay chưa có trong những bản Anh ngữ . Vì vậy một vài lời về học thuyết căn bản của Mật thừa Tây tạng và nguyên lý nền tảng dưới sự thực hành có lẽ là hữu ích .
Có thể tóm tắt như sau :

“ Phật tánh thiêng liêng tuy toàn khắp ,
Nhưng cách nhanh nhất để thấu hiểu sự thực này là :
Khám phá từ trong hợp thể thân tâm của mình ” .
Nhờ những thực tập tâm linh và sự áp dụng những kỹ thuật Mật thừa – như Sáu Yogas . Người ta có thể sớm thấu hiểu : Thân , tâm và “ thế giới khách quan bên ngoài ” , đều là những biểu lộ của Phật tánh thiêng liêng . Sinh tử là Niết bàn - Con người là “ Chư thiên ” . Những loại phiền não “ bất tịnh ” chính là những diễn đạt của Năm Vị Phật Bổn Nguyên .
Năm Vị Phật Bổn Nguyên :

1-
Tỳ Lô Giá Na .

2-
A Súc .

3-
Bảo Sanh

4-
A Di đà .

5-
Bất Không Thành Tựu .
Các vị tượng trưng sự thăng hoa của : Si ( Vô minh ) , sân , kiêu mạn , tham và đố kỵ . Khi Năm Vị Phật này xuất hiện trong năm hướng của Mandalala . Chính Mandala này tượng trưng cho Phật tánh vốn sẵn nơi chính mình .
Giác ngộ hay giải thoát không thể đạt được bằng cách : Nhổ sạch gốc những phiền não của con người ; mà là đồng hóa chúng với Trí Huệ Siêu Việt . Như vậy , học thuyết căn bản của Mật thừa Tây tạng . Có thể được gọi là : Học thuyết nhìn thấy hợp thể thân tâm của con người tương ứng hay đồng nhất với thân tâm của Phật . Tinh thần và cách thức thực hành của tất cả Yoga Mật thừa đều hướng đến sự hiển lộ nguyên lý căn bản này .
Bây giờ ,
Chúng ta hãy lấy hai cột trụ của thực hành Mật thừa :

1-
Yoga của giai đoạn Phát Sinh .

2-
Yogas của giai đoạn Thành Tựu .

Để có thể sáng tỏ học thuyết căn bản này .

Về thực hành giai đoạn
Phát Sinh .
Thiền giả được dạy mô phỏng và nhận thức thế giới bên ngoài như những Mandala . Thân là : Thân của Phật Bổn Tôn . Hệ thống thần kinh là : Hệ thống năng lựợng ba Kinh Mạch , các Luân xa và những hạt Bindu . Nguyện vọng và năng lượng của nó là : Khí-Trí Huệ và “Ánh sáng ” . . .
Về thực hành giai đoạn
Thành Tựu .
Trước hết được dạy hòa tan tất cả : Tư Tưởng - Năng Lượng hay Tâm Khí ( TT. Rlu Sems ) vào Ánh Sáng Bổn Nguyên . Khí ( Prana ) là : Năng lượng hành động và tâm - Sự biết , thức . Tâm và Khí là hai mặt của một thực thể . (Không lìa và tùy thuộc nhau ) . Pháp thân , từ trước tới giờ bị dấu kín trong Trung Tâm ( Luân Xa ) Tim và từ Ánh Sáng Bổn Nguyên sẽ phóng xuất Sắc Thân ( Rupakaya ) làm hoạt hóa vô số hành động của Phật quả .
Nền tảng lý thuyết quan trọng trong thực hành Yoga Tây tạng được gọi là : “ Sự đồng Nhất của Khí và Tâm ” cũng cần được đề cập ở đây . Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những sự tương quan , tương phản hay đối kháng với : Bản thể và hiện tượng , tiềm năng và biểu lộ , nhân và quả . Niết bàn và Sinh tử , Khí ( Prana ) và Tâm . Từng cặp nhị nguyên này , bên ngoài có vẻ tương phản . Nhưng thật ra đều là một - Nhất thể không thể phân chia .
Nếu có thể hiểu trọn vẹn sự đối kháng và làm chủ một cái . Tự động sẽ hiểu và làm chủ cái kia . Như vậy , người thấu hiểu tinh túy của tâm như Trí Huệ Siêu Việt . Đồng thời thấu hiểu tinh túy của khí như là sức sống và hành động của Phật quả . Vì thế , không cần giải thích mọi mặt về học thuyết này . Nhưng điều rất quan trọng là : Cần chú ý về : “ Tính chất hỗ tương giữa tâm và khí ” . Có nghĩa : Khi đã có một loại tâm nào đó . Chắc hẳn sẽ có một “ khí ” tương ứng đi kèm ; cho dù siêu việt hay thế tục .
Chẳng hạn tính khí , cảm nhận hay tư tưởng . Lúc nào cũng kèm theo tính chất và nhịp điệu “ khí ” tương ứng phản ánh trong hơi thở . Như vậy , sân giận không chỉ sinh ra cảm thức tư tưởng bừng cháy và kèm theo hơi thở “ gồ ghề ” , thô cứng . Ngược lại , khi tập trung yên tĩnh vào một vấn đề trí thức . Tư tưởng và hơi thở sẽ biểu lộ sự yên tĩnh . Khi tập trung sâu như : Khi nỗ lực giải quyết một vấn đề tinh tế , hơi thở bị giữ lại trong vô thức . Khi trong tâm thái giận dữ , kiêu căng , ghen tị , hỗ thẹn , thương yêu , tham dục . . . “ Khí ” hay Prana đặc thù có thể được trực tiếp cảm nhận ngay tức khắc .
Trong Đại định , không có tư tưởng sanh khởi nên không có hơi thở có thể tri giác . Vào lúc mới ngộ ban đầu , khi thức bình thường được chuyển hóa . “ Khí ” cũng biến đổi . Như vậy mỗi tâm thái , tư tưởng và cảm nhận . Cho dù đơn giản , vi tế hay phức tạp ; đều có một khí tương ứng đi kèm . Vào giai đoạn thiền định cao cấp , sự lưu thông của máu chậm lại gần như dừng . Hơi thở cũng dừng và thiền giả trãi nghiệm mức độ sáng tỏ trong một trạng thái không có tư tưởng của tâm . Bấy giờ không chỉ biến đổi của thức cũng biến đổi cả sự vận hành sinh lý của thân .
Đặt nền trên nguyên lý này , Mật thừa Tây tạng cho chúng ta hai con đường hay hai loại Yoga . Cả hai cùng dẫn đến một mục đích siêu thế gian . Một cái được gọi là : Con đường của Giải Thoát hay “ Yoga Tâm ” và cái kia : Con đường của Phương Tiện Thiện Xảo hay “ Yoga Năng Lực ” . Cái trước giống Thiền ( Zen ) trong nhiều mặt bởi vì nó nhấn mạnh vào sự quan sát và trau dồi Tâm Bổn Nguyên . Chỉ đòi hỏi những chuẩn bị nghi thức và Yoga tối thiểu .
Cái sau là một loạt những thực hành Yoga phức tạp và nghiêm ngặt . Được biết với tên Yoga giai đoạn Phát Sinh và Yoga giai đoạn Thành Tựu . Ba phần trích riêng về Đại ấn ( Mahamudra ) trong phần đầu quyển sách này thuộc nhóm trước . Độc giả sẽ sớm khám phá sự tương tự lạ lùng với Thiền Phật giáo thời sơ kỳ . Sáu Yoga của Naropa thuộc nhóm sau - Sự tổng hợp của hai Yoga giai đoạn Phát Sinh và Thành Tựu ; được nhấn mạnh đặc biệt vào cái sau .
Theo quan điểm Yoga trong nhóm Sáu Yoga . Yoga Nội Nhiệt và Thân Huyễn là những căn bản ban đầu . Bốn cái sau Giấc Mộng , ánh Sáng , Trung ấm và Chuyển Di là phân nhánh của hai cái đầu . Tuy nhiên , đối với những người thích nghiên cứu những trạng thái “ Vô thức ” và “ Siêu thức ” . Yoga Giấc Mộng và Yoga ánh Sáng có thể rất quan trọng . Chúng sẽ cung cấp thông tin căn bản về chủ đề . Để cung cấp cho độc giả nền tảng tổng quát về Sáu Yoga . Tóm lược dẫn nhập của Lama Drashi Namjhal , bản văn giản dị mà rõ ràng được để hướng dẫn .
Vì vào thời gian này , dịch giả chưa đi vào nguyên bản Tây Tạng . Ba bản văn Đại ấn và Sáu Yoga của Drashi Namjhal được dịch từ những bản dịch Trung hoa mới hoàn thành từ nguồn tư liệu Phật giáo ở Hồng Kông và đài Loan ( Bản dịch tiếng Hoa Sáu Yoga của Drashi Namjhal của Mang Kung : Bài Ca đại ấn của Fa Tsun ; Lời Nguyện đại ấn của Garma C.C. Chang ; và Những Cốt yếu Của Đại Ấn của vị thầy của Chang, tức là Lama Kong Ka ) .
Dịch giả từ chối mọi trách nhiệm đối với những độc giả thí nghiệm hấp tấp và ẩu tả Sáu Yoga . Vì chỉ đọc bản văn không thể thay thế cho vị Thầy sống . Chính từ ngài người tìm cầu giác ngộ đứng đắn cần trước hết nhận quán đảnh và hướng dẫn trước khi bắt đầu thực hành . Đối với người nghiêm túc , quyển sách này có thể phục vụ như một nguồn tham khảo , quy chiếu hay một dấu hướng dẫn cho con đường . Dịch giả , sợ rằng những giáo lý quan trọng này bị mất ở đất mẹ . Nên đã phá lệ với truyền thống từ trước là “ giữ bí mật ” . Nên phát lộ và chuyển dịch Anh ngữ , với hy vọng chúng sẽ có ích cho những người tìm chân lý .
Garma C.C. Chang






Phần 1
Giáo Lý Đại Ấn

Bài Ca Đại Ấn
của Tilopa

Đại ấn ;
Vượt khỏi mọi lời nói và biểu tượng .
Nhưng với con ;
Nhiệt tâm và trung thành .
Nên Naropa ,
Điều này phải được nói ra .

Tánh Không không cần có chỗ trụ ,
Nên.;
Đại ấn nằm yên nơi không có gì cả .
Không cần khởi bất cứ nỗ lực nào ,
Cứ buông lỏng và tự nhiên .
Tất nhiên có thể phá tan ách xiềng ,
Và trực nhận ngay giải thoát .

Nếu nhận thấy không có gì cả khi nhìn vào không gian ,
Ngay bấy giờ biết quan sát tâm .
Chắc chắn sẽ phá tiêu những phân biệt chia cách ,
Tức khắc Phật quả tự viên thành .

Như những đám mây lang thang qua bầu trời ,
Không gốc rễ ;
Cũng không nhà trú .
Cũng thế ;
Những tư tưởng phân biệt trôi nổi qua tâm .
Nhưng khi thấy được tự Tâm ,
Những phân biệt bèn tự ngừng dứt .

Trong không gian ;
Đầy rẫy hững hình dạng và màu sắc ,
Nhưng không gian không nhuốm màu đen , trắng .
Từ Tự Tâm mọi cái đều khởi lên ,
Nhưng tâm không nhiễm ô bởi tốt hay xấu .

Bóng tối bao đời ;
Không thể che tối mặt trời .
Những kiếp dằng dặc triền miên của sinh tử ;
Không thể che dấu ánh Sáng rạng rỡ của Tâm .

Dù lời nói được nói ra để giải thích tánh Không ,
Tánh Không vẫn như vậy không thể nào diễn tả .
Dù chúng ta nói :
“ Tâm là ánh sáng chói ngời ” ,
Vượt khỏi mọi ngôn từ và biểu tượng .
Dù tâm vốn là không trong bản chất ,
Bao trùm và chứa đựng mọi sự.

Nhưng chớ làm gì cả với thân ;
Và chỉ buông xả ,
Đóng kín miệng và giữ im lặng .
Tâm trống không và không nên nghĩ gì cả .
Như thân một cây tre rỗng ;
Cứ để thân nghỉ ngơi thoải mái .
Không lấy cũng không bỏ cứ để tâm ở yên .
Vì Đại ấn là tâm không bám trụ ,
Biết thực hành như vậy ,
Sẽ đến lúc con sẽ đạt đến Phật quả .

Thực hành Thần chú và Ba la mật ,
Giáo huấn trong Kinh cộng Giới Luật .
Giáo lý từ những Trường phái ;
Và Luận điển không thể mang lại ,
Sự chứng ngộ Chân Lý Vốn Sẵn .
Vì nếu tâm còn ham muốn ,
Sự tìm kiếm mục đích sẽ khuất che ánh sáng .

Người nào giữ giới Mật thừa nhưng còn phân biệt ,
Đồng nghĩa phản bội tinh thần Samaya .
Hãy ngừng mọi hoạt động và từ bỏ mọi ham muốn .
Cứ để những tư tưởng tự khởi và tự diệt .
Như những làn sóng trong đại dương ,
Thế nên ;
Người không làm chướng ngại Vô Trụ ,
Và nguyên lý Vô phân biệt là giữ đúng giới Mật thừa .

Người từ bỏ khao khát và không bám níu cái này cái nọ ,
Sẽ tri giác được thật nghĩa trong Kinh điển .

Trong Đại ấn tất cả tội lỗi nhiễm ô cháy sạch ;
Trong Đại ấn được giải thoát khỏi ngục tù của thế gian .
Đây là ngọn đuốc tối thượng của Pháp ,
Những người không tin .
Vì Vô minh và mãi mãi chìm sâu ,
Trong khốn khổ và muộn phiền trong cuộc sống .

Nỗ lực cho giải thoát ,
Cần nương tựa vào một vị Thầy .
Khi tâm nhận được những ban phước của ngài ,
Giải thoát hiện rõ ngay bên cạnh .

Than ôi ,
Mọi sự trong thế gian là vô nghĩa ;
Chúng chỉ là những hạt giống của muộn phiền .
Những giáo lý nhỏ đưa đến những hành vi ,
Thế chỉ nên theo những giáo lý Lớn .

Siêu vượt nhị nguyên ;
Là cái Thấy Tối Cao ( Vua các Pháp ) .
Chiến thắng những phóng dật là :
Sự thực hành Vương Giả .
Con đường không gì để làm là :
Con đường Chư Phật ;
Ai giẫm bước lên chắc chắn sẽ đạt đến Phật quả .

Thoáng chốc trong thế gian như :
Những bóng ma hay những giấc mộng .
Thực sự có bản chất nào đâu ;
Thế nên ;
Hãy buông bỏ và từ bỏ những gì thân thích ,
Cắt đứt những buộc ràng của tham lam và thù hận .
Thiền định trong rừng rậm núi non ,
Tuy không chút cố gắng nào nhưng vẫn thảnh thơi .
Có nghĩa con an trụ trong “ Trạng thái tự nhiên ” ;
Chắc chắn Đại ấn sẽ sớm hiện tiền và chứng Vô Sở đắc .

Cắt đứt rễ của cây lá sẽ héo tàn ;
Hãy cắt đứt rễ của tâm sinh tử tự rơi rụng.
Ánh sáng của bất kỳ ngọn đèn nào ,
Sẽ xóa tan bóng tối dằng dặc chỉ trong chốc lát .
Ánh sáng mạnh mẽ của tâm ,
Trong một tia chớp sẽ đốt cháy ,
Tấm màn vô minh xưa cũ từ bao nhiêu kiếp .

Người nào bám níu vào tâm ;
Không thể thấy sự thật vượt khỏi tâm .
Người nào quá nỗ lực thực hành Pháp ,
Không thể tìm ra sự thật vượt khỏi thực hành .
Muốn biết cái gì vượt khỏi tâm và thực hành ,
Chỉ cần cắt sạch gốc rễ của tâm .
Mở to mắt trần trụi ;
Xa lìa mọi phân biệt và an trụ thảnh thơi .

Người ta không lấy hay bỏ cứ ở yên trong trạng thái tự nhiên ;
Vì Đại ấn hoàn toàn vượt khỏi mọi chấp nhận và từ chối .
Vì thức A Lại Da không sinh ,
Nên không ai có thể ngăn lấp hay làm ô nhiễm .
Trong “ cảnh giới ” không sinh ,
Mọi hình tướng xuất hiện tự tan vào Pháp tánh ;
Mọi chấp ngã và kiêu mạn tự tan biến vào tính không .

Sự Hiểu Ngộ tối thượng siêu vượt đây kia này nọ ,
Hành động tối thượng ;
Bao trùm phương tiện thiện xảo vĩ đại không bám luyến .
Sự Thành Tựu tối thượng là ;
Chứng ngộ cái vốn sẵn không mong cầu .

Ban đầu thiền giả cảm thấy ,
Tâm thức đổ ào ào như thác nước ;
Vào chặng giữa nó chảy từ từ êm ả như sông Hằng .
Cuối cùng trở thành đại dương bao la ,
Nơi ánh sáng Con và Mẹ hòa thành một .







Lời Nguyện Đại Ấn
Karmapa Rangjung Dorje III

(1)

Trong Mandala ;
Con thấy Guru , Bổn tôn và các Thánh .
Trong mọi lúc mọi phương ;
Con thấy chư Phật và chư Bồ Tát .
Với thành tâm sâu xa con cầu nguyện tất cả các ngài ;
Ban phước cho con những ước nguyện .

(2)

Những nghiệp thiện của thân tâm ,
Và những công đức của tất cả chúng sinh ;
Là những dòng suối sạch trong từ Núi Tuyết .
Nguyện chúng tự do đổ về biển cả ,
Của Bốn Thân của Phật quả bao la .

(3)

Qua mọi đời tương lai của con ,
Nguyện con không nghe những từ ngữ :
“ Khổ đau ” và “ Tội lỗi ” .
Nguyện con luôn chia xẻ niềm vui và sự tốt đẹp ;
Trong đại dương Pháp bao la .

(4)

Nguyện con luôn rảnh rang ;
Xác tín , chuyên cần và trí huệ .
Gặp những Guru ;
Và nhận những giáo huấn cốt lõi của các ngài.
Trong thực hành ;
Nguyện con không bao giờ gặp những trở ngại ,
Và luôn hưởng thụ Pháp trong những đời tương lai .

(5)

Nguyện Tính Giác phân biện và thiêng liêng ,
Giải thoát cho con khỏi vô minh .
Nguyện những Giáo Huấn cốt lõi ;
Phá tan mọi nghi ngờ bóng tối.
Qua ánh sáng thiền định nguyện ;
Con nhận thấy Chân Lý lộ bày ,
Và đốt lên ánh sáng của Ba Trí Huệ .

(6)

Nền Tảng là Hai Chân Lý ( nhị đế )
Vượt khỏi những kiến chấp có không .
Con đường là sự chuẩn bị tâm linh xa lìa tăng giảm ;
Quả là Hai Lợi Lạc :
Tự giác giác tha siêu vượt khỏi Sinh tử và Niết bàn.
Nguyện con luôn gặp được ;
Những giáo pháp chân chánh suốt những đời vị lai .

(7)

Tinh túy Tâm rỗng rang và sáng chói ;
Cội nguồn đích thực hai trong một .
Đại ấn kim cương cắt đứt thường tịnh hóa ,
Vô minh và nhiễm ô ,
Chỉ là những mê lầm thoáng chốc .
Nguyện con đạt đến Pháp thân vô cấu ,
Quả của sự tịnh hóa thường hiển lộ .

(Cool

Cái Thấy của Đại ấn ;
Không thêm chút gì vào bản tánh của Tâm .
Chánh niệm với cái Thấy không xao lãng là Thiền định ,
Thường trực trong đó là Hạnh tối thượng .
Nguyện con xác quyết an trụ ;
Trong cái Thấy , Thiền định và Hạnh tối thượng .

(9)

Mọi hình tướng là những biểu hiện của tự tâm ,
Tâm vốn vô tâm và trống không trong bản chất .
Dù trống không nhưng không đoạn diệt và biểu lộ tất cả .
Nguyện con luôn luôn quán sát được chân lý ,
Và đạt được cái Thấy xác quyết .

(10)

Vì mê muội ,
Nên những gì tự biểu lộ vốn trống không ;
Lại lầm lẫn cho là đối tượng có thực ở bên ngoài .
Chúng ta chấp lấy tánh tự giác cho là ngã ,
Do hai sự chấp ( Ngã và Pháp ) ;
Nên mãi lang thang trong sinh tử .
Ôi ,
Nguyện con cắt đứt sự mù tối căn để này .

(11)

“ Không có gì thực sự có ! ” ,
Vì ngay cả Phật cũng không thể thấy .
“ Nhưng tất cả cũng chẳng phải không ! ” ,
Vì Niết bàn và sinh tử vẫn hiện hữu .
Trung đạo kỳ diệu của hai trong một ,
Vốn không thuận cũng không nghịch .
Ôi nguyện con chứng ngộ tự tâm ,
Thoát khỏi mọi phân biệt .

(12)

Không ai có thể diễn tả bằng cách nói :
“ Nó là cái này hay cái khác ” .
Không ai có thể bác bỏ bằng cách nói:
“ Nó không phải là cái này hay cái khác ” .
Cái Không của thật Pháp
Siêu vượt khỏi lãnh vực của thức với sự xác tín sâu xa .

(13)

Vì mê mờ nên mãi lang thang trong sinh tử ;
Nếu nhận thấy được ;
Không có giác ngộ nào khác .
Trong chân lý rốt ráo không có đây và kia .
Nguyện con chứng ngộ Pháp tánh ;
Nghĩa và nguồn của tất cả hiện hữu .

(14)

Hình tướng biểu lộ là tâm ;
Tánh không cũng là tâm .
Giác ngộ là tâm ,
Mê mờ cũng là tâm .
Khởi diệt của các pháp cũng chỉ có trong tâm ;
Nguyện con hiểu mọi sự duy chỉ là tâm .

(15)

Không nhiễm ô bởi ý định thực hành hay nỗ lực ,
Xa lìa khỏi ảnh hưởng thế gian và những phóng dật .
Nguyện ;
Con an trụ thong dong trong trạng thái tự nhiên của tâm
Và khéo học điểm vi diệu của tu tâm .

(16)

Mạnh và yếu , tỏ và mờ ,
Những sóng tư tưởng chìm lặng mất .
Dòng tâm nhẹ nhàng chảy không hề bị quấy động ,
Xa lìa cấu nhiễm của hôn trầm phóng dật .
Nguyện ;
Con đi vào đại dương chánh định thường trụ bất động .

(17)

Thường quán sát cái Tâm không thể quán ,
Thấy rõ ràng Chân lý không thể thấy .
Nguyện
Đoạn trừ những nghi ngờ thấy có và không .
Nguyện ;
Con nhìn thấy và xác quyết Bản lai diện mục .

(18)

Khi quán sát ngoại vật ,
Con chỉ tìm thấy tâm mình .
Khi quán sát tâm ,
Con chỉ tìm thấy tánh Không .
Khi quán sát cả tâm và vật ,
Con thoát khỏi hai chấp ngã và pháp .
Nguyện
Con chứng ngộ tự tánh của tâm tỏa sáng .

(19)

Vì cái ấy siêu việt tâm thức,
Nên được gọi là Đại ấn .
Vì cái ấy thoát khỏi những cực đoan ,
Nên được gọi là Trung đạo vĩ đại .
Vì cái ấy bao trùm tất cả ,
Nên được gọi là Đại Toàn Thiện .
Nguyện con luôn hiểu :
Biết một là biết tất cả .

(20)

Khi không tham luyến ,
Đại Lạc tương tục sanh khởi .
Khi thoát khỏi bám chấp ,
Ánh Sáng thành rạng rỡ .
Thấu thoát những ngăn ngại và bóng mờ .
Nguyện ;
Con hành không ngừng sự thực hành không cố gắng .
Nó là tự do và tự duy trì ,
Không dính gì đến tư tưởng .

(21)

Tham cầu kinh nghiệm ;
Thiền định sẽ tự tan biến về phần nó .
Vọng niệm và ác niệm tự tịnh hóa trong Pháp Giới ;
Tâm bình thường không có lấy , bỏ , được , mất .
Nguyện ;
Con chứng ngộ Pháp tánh vốn xa lìa mọi hý luận hay tạo dựng .

(22)

Không biết tự tánh của mình là một với tánh của Phật ,
Chúng sinh không ngừng lang thang trong sinh tử .
Đối với tất cả chúng sanh trói buộc trong khổ đau phiền não ,
Nguyện con luôn luôn xót thương chân thật ,
Trong lòng đại bi không kể xiết .

(23)

Khi lòng bi tự sinh khởi ,
Tánh không vĩ đại sáng rỡ tự hiện bày .
Con đường tối thượng sáng tỏ hai trong một ,
Nguyện con ngày đêm không lìa bỏ .
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa   Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu Jan 19, 2012 5:58 am


(24)

Nguyện ;
Con sử dụng nhãn và những thông tỏ ,
Có được từ thiền định để thành tựu chúng sinh ;
Và phụng sự tất cả chư Phật và cõi của các ngài .
Nguyện ;
Con làm tròn đại nguyện của các bậc Giác Ngộ .
Và nhanh chóng đạt đến Phật quả tối thượng và toàn hảo .

(25)

Vĩ đại thay năng lực của mọi công đức trong vũ trụ ,
Vĩ đại thay năng lực của lòng bi của chư Phật và Bồ tát .
Với sự nâng đỡ của thần lực vĩ đại ,
Và được ánh sáng của Pháp hướng dẫn
Nguyện ;
Mọi nguyện lành của con và chúng sinh được thành tựu dễ dàng .






Phần II

Tóm lược dẫn nhập vào
Con đường Thậm Thâm
Sáu Yoga của Naropa

Viết bởi Drashi Namjhal

Đảnh lễ Guru Dorje Chang –
Kim Cương Trì .

Nhất thể của bản thể và hiện tượng là :
Thực tại của Pháp .
Sự đồng nhất của Phương tiện và Trí Huệ là :
Con đường của “ Lạc ” và Tánh Không .
Tính nhất như của “ Sắc và Không ” là :
Quả của Ba Thân.
Trước Phật Kim Cương Trì ,
Người chỉ bày con đường
Con xin đảnh lễ .

Tịnh hóa thân , khẩu và tâm ;
Ngài làm chủ ba Yoga ;
Đã tìm được sự Thành Tựu Tối Thượng .
Trước Gampopa (1) ;
Guru vô song .
Con xin chân thành đảnh lễ .

Tánh Không phúc lạc của Nhiệt Tum-Mo bí mật là :
Tinh túy của những tuồng huyễn thuật .
Những Yoga Thân Huyễn và Giấc Mộng là :
Tinh túy của ánh Sáng .
Trong cõi Trung ấm đạt được Ba Thân ,
Giúp cho sự sinh về các cõi Phật .
Trước những Guru trong Dòng Phái ,
Đã chủ trì mọi Yoga này ,
Con xin chân thành đảnh lễ .

Những Yếu Chỉ của Sáu Yoga được giới thiệu ;
Chỉ mong được giúp những người có khả năng .
Hỡi đấng của những Bí Mật và của những Dakini ,
Con cầu xin ngài hướng dẫn với sự ban phước .
Giáo lý này được ban cho những người đã từ bỏ thế gian ; và tha thiết đạt đến Phật quả chỉ trong đời này . Chỉ mong giúp những người thành tâm và có khả năng về hai Yoga (2) . Nhanh chóng đạt đến Ba Thân của Phật tánh . Thế nên , sự giảng giải về giáo lý tinh yếu của Con đường thậm thâm được viết ra . Trước hết , ôn lại ngắn gọn những nguyên lý nền tảng của sự thực hành ( về Sáu Yoga ) . Sau đó bàn luận những kỹ thuật thực hành từng chi tiết . Cuối cùng sẽ bình luận về kết quả hay sự Thành Tựu .
Những Nguyên Lý Căn Bản
Về Thực Hành Tantra
Những nguyên lý căn bản của thực hành ( Tantra ) . Nằm trong rõ biết về sự tương quan giữa thân người và Thân của Phật quả . Thế nên , cần phải thấu hiểu bản chất của : Năng lực khí ( Prana ), kinh mạch ( Nadi ) và hạt ( Bindu) , và toàn bộ hoạt động của thân thể vật lý . Tổng quát , thiền giả cần biết sự cấu tạo của Thân Kim Cương từ sáu đại ( Địa, thủy , hỏa , phong , không , thức ) là sự tạo sinh , hiện hữu và hoại diệt .
Đặc biệt , phải biết kinh mạch , khí và hạt hoạt động như thế nào . Nên thấu triệt bản tánh của tâm và những hình thức khác có thể biến hiện . Cũng cần biết mọi sự đều do A Lại Da thức phóng chiếu thành những biểu lộ thô , vi tế và cùng cực vi tế .
1-
Biểu lộ thô :
Bao gồm toàn bộ Bảy Thức .

2-
Biểu lộ vi tế chỉ :
Tám mươi loại tư tưởng vọng động .

3-
Biểu lộ vùng cực vi tế chỉ :
Những giai đoạn :
“ xuất hiện ” ,
“ Tăng trưởng” và “ đạt đến ” (3) .
Chúng ta cần quen thuộc với lý thuyết : Làm thế nào và tại sao ba hiện tượng xảy ra và biến mất . Thêm nữa , làm quen với những nguyên lý căn bản về : Nền Tảng , Con đường và Quả của Mật thừa như : Những tình thức phải được chuyển hóa . Con đường phải theo và đại trí huệ phải đạt được . Tất cả những điểm này cần được nghiên cứu cẩn thận trong những kinh điển khác nhau và được trầm tư sâu sắc .
Thực Hành Sáu Yoga
Vài sơ bộ cần thiết trước khi đi vào thực hành chính về Sáu Yoga . Đó là những thiền định căn bản về sự vô thường của cuộc đời như :
- Về những khổ đau của sinh tử .

- Về sự khó tái sinh thuận lợi để thực hành Pháp .

- Về sự cương quyết từ bỏ cuộc đời này .

- Về lòng tốt và bi mẫn với toàn thể chúng sinh ,
Và Bồ đề Tâm vô lượng - Cái Thấy Lớn và Nguyện Lớn .
Hầu mang tất cả chúng sinh đến trạng thái Phật tánh .
Chỉ qua những thực hành này ; nền tảng của Pháp mới được xây dựng . Sau đó ; hành giả tiếp tục thực hành những sơ bộ Mật thừa như sau :
Để tịnh hóa những chấp thủ và đặt nền móng vững chắc cho sự thực hành cao cấp về sáu Yoga . Trước cần bốn Quán đảnh về Demchog (4) ; và thực hành Yoga Phát Sinh cho đến khi đạt đến một mức độ thực sự vững chắc . Để chiến thắng sự trì trệ và lười biếng , phải tham thiền thêm về cái chết và vượt qua những chướng ngại như :
- Cần cầu nguyện chư Phật và phát Bồ đề tâm ;
để chuẩn bị đủ lương thực cho Con đường Pháp .

- Cần thực hành bố thí và dâng cúng Mandala ;
để tự tịnh hóa khỏi tội lỗi và không vi phạm .

- Cần sám hối và trì tụng Thần Chú Vajrasattva ;
để được những ân phước và phải thực hành Guru Yoga .
Mỗi sự thực hành sơ bộ có thể được tiến hành trong năm đến bảy ngày liên tiếp . Những lời chỉ dạy và những nghi thức . Chúng ta có thể tìm được ở các nguồn khác .
Thực hành chính về
Sáu Yoga được nêu ra như sau :

1-
Chỉ dạy về Nội Nhiệt hay Tumo Yoga ;
Nền Tảng của Con đường .

2-
Chỉ dạy về Yoga Thân Huyễn ;
Sự Nương Dựa vàa Con đường.

3-
Chỉ dạy về Yoga Giấc Mộng ;
Tiêu Chuẩn So Sánh của Con đường.

4-
Chỉ dạy về Yoga ánh Sáng
Tinh Túy của Con đường .

( Ánh Sáng trong sách này là Tịnh Quang - Clear Light ;
được dịch trong các sách khác của NXB. Thiện Tri thức ) .

5-
Chỉ dạy về Yoga Trung ấm ;
Cái sẽ gặp trên Con đường .

6-
Chỉ dạy về Yoga Chuyển Di ;
Cốt Lõi của Con đường .

1-
Những Giáo Huấn
Về Nội Nhiệt hay Tumo Yoga

A.
Thực Hành Cơ Bản

Thực hành cơ bản của Yoga Nội Nhiệt có năm bước :

(1)
Quán tánh Không
hay sự Trống Rỗng của Thân .

(2)
Quán những Kinh Mạch Chính hay Nadi .

(3)
Thực tập Thở
( Thở Bình) .

(4)
Vận dụng Hạt
( Bindu ) .

(5)
Những thực tập về thân .

B-
Thực Hành Cao Cấp
Những chỉ dạy trên đều hướng về phần thực hành sơ cấp hay cơ bản . Bây giờ chúng ta đề cập phần thực hành cao cấp hơn, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào :
1-
Tăng cường Tumo hay Nội Nhiệt .

2-
Tăng cường Lạc .

Vài bình luận về kinh nghiệm về Lạc cần được nói đến :
Tổng quát , Kinh nghiệm có thể chia thành bốn phạm trù :

(a)
Nếu thiền giả cảm thấy toàn thân trở nên mềm dịu và nhẹ nhàng ;
Và trãi nghiệm một cảm giác thích thú và dễ chịu khi chạm vào bất cứ vật gì .
Điều này chứng tỏ đã “ thuần hóa ” được nhiều kinh mạch trong thân .
Lạc được gọi là Lạc do Kinh Mạch .

(b)
Nếu cảm giác lạc thú tinh tế được cảm thấy trong một phần của thân ;
Như khi chỗ ngứa được gãi nhưng cảm giác chỉ chốc lát và nhanh chóng biến mất .
Có nghĩa thiền giả đã kinh nghiệm Lạc do Khí .

(c)
Nếu cảm giác ấm áp và xuất thần đồng thời khởi sinh khắp thân ,
Hay trong một phần thân là :
Lạc được sản sinh do sự tăng cường hạt đỏ .

(d)
Nếu cảm giác là cảm khoái như lạc tính dục mạnh mẽ và thấm toàn thân ;
Chính là lạc sinh ra do Lửa Tumo làm cháy lỏng hạt ;
Và tùy theo cường độ có thể chia thành ba nhóm :

(1)
Nếu Lạc và cảm khoái mạnh và khó chịu đựng ;
Thậm chí rất khó giữ lại Hạt được gọi là “ Lạc Nam ” .

(2)
Nếu Lạc và cảm khoái mạnh nhưng không mạnh như trên ;
Và thiền giả dễ dàng kiểm soát Hạt là “ Lạc Nữ ” .

(3)
Nếu lạc và cảm khoái không mạnh ,
Và thiền giả dễ dàng kiểm soát Hạt là “ Lạc Trung Tính ” .

3-
Tăng cường sự Không Khác Biệt .

4-
Phát triển định Không-Lạc .

Thiền giả cần biết về bốn loại Tumo :

a-
Tumo ngoài :

Tumo của Yoga Phát Sinh ;
Có thể tiêu hủy mọi cái xấu và chướng ngại.

b-
Tumo trong :

Tumo của Sinh Khí ;
Có thể chữa lành bốn trăm lẻ bốn loại bệnh .

c-
Tumo bí mật :

Tumo của sự chảy lỏng và đi xuống ,
Có thể hủy diệt mọi phiền não.

d-
Tumo siêu việt :

Tumo của Không Khác Biệt ,
Có thể làm hiển lộ Trí Huệ Bổn Nguyên.

5-
Chiến thắng
Những chướng ngại trong thực hành Tumo .

Những chướng ngại chính khi thực hành Yoga Tumo là ::

1-
Bệnh hoạn .

2-
Gián đoạn .

3-
Tham dục .

4-
Cái chết .

Không nên bị chúng hàng phục và chiến đấu với chúng bằng sự can đảm và kiên trì .

2.
Những Giáo Huấn Về Yoga
Thân Huyễn
Trước hết , thiền giả cần hoàn thành mọi thực hành sơ bộ như : Thiền định về vô thường trong đời sống , về khổ đau của sinh tử , về từ bỏ , về tâm Bi , về Bồ đề tâm . . . Sau đó trong mỗi thời thiền định , nên dành một phần ba thời gian cho thực hành Tumo . Tự nhắc nhở mình : Chỉ vì muốn làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh nên phải đạt đến Báo thân Phật ( Thân vinh quang và thiêng liêng ) . Vì thế , Yoga Thân Huyễn phải được tu tập . Nên cần cầu nguyện Guru Báo Thân màu đỏ với người phối ngẫu của ngài ( Yum ) (16) ngồi tại trung tâm cổ họng ban phước và trợ giúp . . .
Cần nghĩ mọi thứ trong thế giới bên ngoài như : Nhà cửa , thành phố , núi non , sông , người , thú vật , mọi bộ phận và giác quan của thân thể . Chỉ là những biểu lộ của tâm mê lầm . Không hiện hữu thực sự hay không có tự tánh giống như những ảo ảnh , huyễn thuật , giấc mơ , bọt nước , bóng dáng và sương móc . . . Vì trong thực tế chúng không có bản chất của sự hiện hữu .
Nghĩ rằng : Mọi sự khởi lên tùy thuộc lẫn nhau do duyên sinh ( Pratitya-samutpada ) như bóng phản chiếu , như tiếng vang không có tự thể . Sau đó tiếp tục tư duy tiếng dội và bóng phản chiếu và nghĩ : Các pháp chỉ là chốc lát và thoáng như sương móc và bọt nước . Mô phỏng sương móc tự tan biến khi mặt trời lên và bọt nước sẽ tan biến trong nước như thế nào . . . Nên nghĩ ngay trong sát na sự vật cũng không thể tồn tại . Tất cả các pháp đều như cầu vồng . Tuy đẹp nhưng không có thực thể và sẵn sàng tan biến giữa hư không . . . Theo cách ấy , hãy thiền định về huyễn và không . Cả sau thiền định vẫn tiếp tục quán sát sự thực đều là trò chơi của huyễn hóa đến khi có thể tự nhổ sạch mọi bám níu mọc rễ lâu đời .
Sự thực hành có hai phần :

1-
Thực Hành Thân Huyễn Chưa Trong Sạch
Đứng trước tấm gương , quán sát sự phản chiếu của thân thể . Nhìn hình ảnh một lúc và xem xét hình ảnh ấy được tạo thành bởi một hỗn hợp nhiều yếu tố khác nhau : Tấm gương , thân thể , ánh sáng , khoảng không và trong những điều kiện nào đó . Nó chỉ là vật do duyên sinh nên không có tự thể . Tuy xuất hiện nhưng hoàn toàn trống không .
Sau đó quan sát hiện tướng của hình ảnh cùng với áo quần và trang sức . Xem bạn vui thích hay không ưa vóc dàng này . Sau đó giả bộ nổi sân , chống lại chính bạn khi quan sát bạn bị ảnh hưởng bởi nó . Thực hành như thế , sẽ khám phá ra : Mọi ưa thích và chán ghét cũng là huyễn hóa và chủ quan . Vì nó được tạo ra bởi tâm thức riêng bạn . Như thế sự bám chấp của bạn sẽ giảm đi rất nhiều .
Để thực hành thiền định về tiếng vang . Bạn đi đến một nơi chúng có thể sinh ra . Sau đó hét lớn những lời đáng ưa và đáng ghét để ca ngợi hay làm tổn hại chính bạn và quan sát những phản ứng thích và ghét . Thực hành như thế, bạn sẽ sớm hiểu : Mọi lời nói đáng ưa hay đáng ghét đều là huyễn hóa như chính tiếng vang . Nếu có thể thực hành thiền định này thành công . Bạn sẽ sớm trở nên thản nhiên đối với cả hai thứ khen và chê như vậy bạn sẽ được giải thoát . . . Khi đã có thể đối xử bình đẳng với ưa và ghét , sướng và khổ , được và mất . . .
Thế nên , tiếp tục thiền định về như huyễn trong một nơi yên tĩnh hay nơi vắng vẻ . Sau đó , có thể trờ lại làng mạc hay thành phố để thực hành giữa những con người và hoạt động . Nếu nhận ra rằng mình còn phản ứng thuận theo hay nghịch lại với những điều thích hay không thích . Nên quay trở lại nơi tĩnh mịch và thực hành lần nữa . . .
2-
Thực Hành Thân Huyễn Trong Sạch
Trong nhiều sách dạy về Sáu Yoga , thiền định về Phật Bổn Tôn ( Yidam ) không được giải thích rõ ràng . Dầu thấu hiểu trước hết phải thực hành và hoàn tất Yoga Phát Sinh trước khi có thể thực hành Yoga Thành Tựu . Nhưng ngày nay người Tây tạng hiếm khi thực hiện cố gắng này . Điều này quả thật đáng tiếc . Vì mô phỏng thân huyễn của Phật Bổn Tôn là một nền tảng cho Yoga Thành Tựu ; đồng thời là phương tiện dùng để đạt đến Báo Thân viên mãn trong trạng thái Trung ấm . Mô phỏng hình ảnh Phật Bổn Tôn trong thực hành Yoga Phát Sinh bởi thế được nêu ra sau đây :
Kiếm một bức vẽ Phật Bổn tôn thật rõ ràng , đặt ở góc giữa hai tấm gương và quan sát tính như huyễn của ba hình ảnh . Bức hình được dùng như chỗ dựa để quán tưởng Phật Bổn Tôn cho đến khi xuất hiện thật rõ ràng trong tâm như tâm trạng của người tình . Hành giả được khuyên quán tưởng toàn bộ hình ảnh toàn thân cùng một lần , và giữ được rõ ràng càng lâu càng tốt .
Sau một lúc thị kiến bắt đầu nhạt mờ . Bấy giờ nên mô phỏng một phần thân thể đến khi cực kỳ rõ ràng . Nên khởi đầu với đầu và mặt , cổ , thân , tay chân . Đến khi toàn thể thân trở nên sống động và rõ nét . Như người xem khiêu vũ trong một thời gian dài có thể dễ dàng hình dung mình giống như người khiêu vũ . Cũng thế , người quan sát một bức vẽ có thể mô phỏng một cách rõ ràng và dễ dàng . Một thị kiến sáng tỏ và bền vững chỉ có thể thiết lập qua thực hành liên tục , đều đặn . Nếu thực hành ngắt quãng rất tai hại cho sự thành tựu về mô phỏng .
Người nào thực hành thực tập cực kỳ tốt . Có thể có thị kiến rõ hơn bức vẽ . Người thực hành tốt vừa có thể thấy rõ ràng như bức vẽ . Người không tốt thì thị kiến mờ tối hơn bức vẽ . . . Người thực hành quá chặt chẽ sẽ khơi dẫn nhiều tư tưởng phóng dật . Nếu quá buông lỏng sẽ trở nên hôn trầm . Bởi thế cần tự điều chỉnh bằng những điều kiện khác nhau và theo con đường trung đạo .
Khi thị kiến về Phật Bổn Tôn đã vững chắc và rõ ràng . Thiền giả cần bước thêm một bước là : Đồng hóa thị kiến với tánh Không . Vì mô phỏng nhưng không có nền tảng cái thấy về tánh Không cùng lắm chỉ là tưởng tượng tốt . Ngay cả thiền định về như huyễn của Thân Phật Bổn Tôn ; nếu không có một chứng ngộ trực tiếp về tánh Không . Cùng lắm chỉ tạo được sự thành Tựu tương đối chứ không phải tối hậu .
Mặt khác , khi biết tâm Không có thể lập tức thấu hiểu thị kiến về Phật Bổn Tôn như : Ảo ảnh của tâm thức được phóng chiếu . Nên không có chút thực thể . Lúc ấy sẽ thấy : Hình tướng là tự thân đã là tánh Không chẳng cần đồng hóa với tánh Không . Vì thế , trong thiền định , Thiền giả cần tắm thị kiến Phật Bổn Tôn vào trong tánh Không tự-sáng chiếu mà không chút lơ đảng lơ đãng . Sau thiền định , cố gắng giữ gìn tánh giác và đồng hóa với mọi thứ gặp gở . . .
Tóm tắt :
Thị kiến Phật Bổn Tôn được phóng chiếu trong thực hành Yoga Phát Sinh là sự diễn đạt Chân Lý : Tất cả những gì xuất hiện đều là tánh Không và là biểu tượng của huyễn ảo không có thực thể hay thực tại nào . Nếu dùng ví dụ có thể so sánh với : Sự xuất hiện huyễn thuật ; Phản chiếu của mặt trăng trong nước . Một cái bóng không xương thịt ; một ảo ảnh thoáng qua chốc lát . Một giấc mộng do tâm thức phóng chiếu .
Một tiếng vang do duyên khởi ; một ảo tưởng không có thực thể ; Đám mây thường xuyên thay đổi hình dạng . Cầu vồng đẹp đẽ và sống động nhưng không có chất thể . Một tia chớp xuất hiện và biến mất . Bọt nước bất ngờ sinh ra và tan vỡ . Hhình ảnh trong gương biểu lộ sống động nhưng không có tự thể . . .
Khi thiền giả có thể an định thị kiến Phật Bổn Tôn dễ dàng và thoải mái . Bấy giờ có thể bành trướng thân Bổn Tôn đến tầm cỡ vũ trụ hay rút nhỏ nó lại bằng hạt cải nhỏ và nhân lên đến hàng triệu triệu . . . Sau đó có thể rút mọi Hóa thân về Thân nguyên khởi và thiền định về nó một ít lâu .
Trong sinh hoạt hàng ngày đồng hóa mọi trãi nghiệm với cõi Phật . Nhà cửa và đô thị với Mandala . Thế giới với quốc độ thanh tịnh của Phật . Mọi người với chư Phật chư Bồ Tát . Nên nghĩ : Tất cả âm thanh đều là thần Chú . Tất cả tư tưởng là trò chơi của Pháp Thân . Toàn thể đồ vật và những thứ thưởng thức là đồ cúng dâng lên chư Phật . Theo cách này , sẽ tự tịnh hóa mọi biểu lộ hình tướng của sinh tử và hòa lẫn chúng với tánh Không tự chiếu sáng .
Tổng Duyệt
Thực Hành Thân Huyễn
Mọi pháp trong Sinh Tử lẫn Niết Bàn đều Vô tự tánh và như huyễn . Nhưng sự bám chấp , lầm lạc và tư tưởng phân biệt của chúng sinh xem sự vật xuất hiện là thật . Để trừ sạch sự bám chấp và lầm lạc , phải biết quan sát tánh Không của tất cả các Pháp và học hỏi sự thực về huyễn hóa . Đây là nguyên lý tổng quát của tánh như huyễn .
Nguyên lý nền tảng thực hành
Yoga Thân Huyễn trong các Tantra .
Có thể tóm gọn trong những lời sau :
Trong thân người thô thiển do nghiệp báo . Vẫn thường trụ tinh túy thanh tịnh của Thân Phật bị che dấu ; do sự bám chấp và lầm lạc của con người . Qua sự thực hành định Yoga Thân Huyễn . Những bám chấp và lầm lạc dần dần được trừ sạch và Trí Huệ minh không được chứng ngộ .
Kết quả :
Những khí, kinh mạch và hạt thuộc sinh tử được tịnh hóa và thân người được chuyển hóa thành Thân Huyễn như cầu-vồng của Phật quả . Cốt lõi của Yoga Thân Huyễn là sự hiển lộ ánh sáng bổn nguyên . Phóng chiếu liên tục thành thân huyễn nhờ tâm –khí . . . Trong thực hành , thiền giả thực sự cảm thấy không có gì thực sự hiện hữu . Trãi nghiệm này tiếp tục đi sâu cho đến khi đạt đến Giác Ngộ viên mãn .
3.
Những Chỉ Dạy
Về Yoga Giấc Mộng
Nhận biết giấc mộng là cốt lõi của thực hành Yoga Giấc Mộng . Để thực hiện điều này , trước hết cần phải phải dẹp bỏ tất cả nguyên nhân che chướng Tánh Giác trong sáng . Những nguyên nhân nổi trội làm ngăn ngại tánh Giác và những đối trị được nêu ra ngắn gọn sau đây :
1-
Người vi phạm những Giới Luật Mật thừa . Không thể nhận ra những giấc mộng . Vì thế , Thiền giả cần sám hối những vi phạm và thực hành thần chú Vajrasattva (17) để tẩy sạch tội lỗi và lập lại những Giới Luật Samaya . Sau đó phải cố gắng để được ban truyền quán đảnh mới từ Guru của mình hay qua cầu nguyện. (18) .
2-
Người ít lòng tin vào Guru và vào những giáo huấn Mật thừa . Rất khó nhận ra những giấc mộng . Vì thế , phải cố gắng tăng cường lòng tin .
3-
Người tham lam những sở đắc vật chất . Không thể nhận ra những giấc mộng . Vì thế ; phải vất bỏ những lệ thuộc vật chất của nó và thôi bám chấp vào đời sống này .
4-
Người mất hạt hay làm dơ bẩn thân thể (19) . Không thể nhận ra những giấc mộng . Vì thế , cần cố gắng bảo tồn hạt . Tránh chung đụng với người , thức ăn và nơi chốn không trong sạch . Nếu phải tiếp xúc . Nên cử hành những nghi lễ tẩy tịnh để sửa chữa .
5-
Người không thể nhận ra những giấc mộng . Nếu tâm thức đầy những tư tưởng phóng dật hay ước muốn làm đuợc điều ấy cho dù yếu ớt . Vì thế , nên sống một mình và cố gắng làm mạnh niềm tin và nguyện vọng thành tựu .
6-
Nếu ban ngày liên tục nghĩ rằng mọi thứ thấy , nghe , sờ chạm . . . Đều là mộng , sẽ làm tăng trưởng cơ may lớn nhận ra giấc mộng vào ban đêm .
Trước khi bắt đầu thực hành Yoga giấc Mộng . Trước hết cần hoàn thành những thực hành sơ bộ tổng quát và dành một phần ba của mỗi thời để thực hành Tumo . Hai phần ba còn lại mô phỏng những chủng tử tự trong Trung Tâm Cổ Họng . Một kỹ thuật tốt phát sinh những giấc mộng . Trước tiên cầu nguyện Guru đến ngồi ở luân xa cổ họng để gia hộ cho mình nhận ra những giấc mộng vào ban đêm .
Có thể đơn giản hóa bằng cách : Chỉ mô phỏng chữ Ohm màu đỏ ở trung tâm luân xa cổ họng và duy trì hơi thở bình đến khi nếu có thể . Hay có thể xướng ngâm bằng tâm trí âm Ohm dài trong từng hơi thở . Một số người nói rằng điều này chỉ làm khi ngủ . Nhưng như thế không đúng . Vì nếu thực hành vào ban ngày như thiền định chính . Tâm Khí sẽ tập trung trong luân xa cổ họng nhanh và dễ dàng hơn . Thêm nữa sẽ giúp cho khí vào kinh mạch trung ương và hiển lộ rõ bốn cái không .
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa   Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu Jan 19, 2012 5:58 am


Thiền giả phải nghĩ liên tục trong trạng thái thức : Tất cả những gì thấy , nghe , xúc chạm , suy nghĩ và hành động đều trong giấc mộng . Cũng tránh thức ăn bổ dưỡng nhiều hay ăn nhiều quá và không làm cạn kiệt mình bằng những hoạt động hao tổn nhiều sức . Tóm lại , cần cố gắng phối hợp những năng lực của khí , ý chí mạnh mẽ và của những phương pháp khác để nhận ra những giấc mộng . Thời gian tốt nhất để quan sát giấc mộng là giữa lúc gần sáng và mặt trời mọc . Vì đây là lúc thức ăn đã được tiêu hóa , sự nghỉ ngơi vừa đủ , hôn trầm không nặng và tâm thức tương đối sáng tỏ . Nhưng người nào thường ngủ chập chờn cũng có thể thực hành điều này trong đêm .
Nếu hỏi : “ Có sự khác biệt gì giữa Yoga thân huyễn và Yoga giấc mộng ? ” . Câu trả lời là : Nền tảng hoàn toàn giống nhau . Nhưng Yoga giấc mộng được xem như bổ sung cho Yoga thân huyễn . Một cái dùng để phát sinh thân huyễn và cái kia hoàn thiện . Cũng cần biết thân huyễn sinh khởi từ ánh sáng trong trạng thái thức sâu xa hơn và vi tế hơn thân huyễn của những giấc mộng . Cả hai Yoga thực hành bổ sung lẫn nhau . Cuối cùng theo cách này , sự bám chấp về thời gian biểu lộ trong phân đôi giữa trạng thái mộng và trạng thái thức có thể vượt qua .
Thực hành phối hợp hai Yoga có thể tịnh hóa những tư tưởng thói quen của sinh tử và chứng ngộ mọi sự là những biểu lộ của tâm thức và tâm thức thì vô tự tánh giống như những giấc mộng . Khi đã biết Sinh Tử và Niết Bàn là ảo ảnh không thật . Chúng không trói buộc và cũng không giải thoát . Từ đó sẽ tẩy sạch khỏi mọi luyến chấp thô và tế , tịnh và bất tịnh . Cuối cùng tự hiển lộ Báo thân như huyễn hóa của Phật quả .
4.
Những Giáo Huấn về
Yoga ánh Sáng
Nhận Ra Ánh Sáng
Những bước cần có trong thực hành sơ bộ để dẹp bỏ những chướng ngại và tập hợp mọi điều kiện tốt đẹp cho sự nhận biết ánh sáng ( Tịnh Quang – chú thích của bản tiếng Việt do các dịch giả của NXB. Thiện Tri Thức ) như trong Yoga Giấc Mộng . Trong mỗi thời thiền định . Cần để ra một phần ba thời gian thực hành Tumo . Hai phần ba thực hành Yoga ánh Sáng . Trước tiên mô phỏng Phật Vajradhara màu xanh với người phối ngẫu ngồi trong Trung Tâm Trái Tim và cầu nguyện Ngài khai mở Ánh sáng Bổn Nguyên (Ánh Sáng Vốn Sẵn ) .
Mô phỏng chữ Hum màu xanh trong trung tâm trái tim và duy trì hơi thở bình hay trì tụng trong tâm trí âm Hum dài . . . Sau đó , tất cả thế giới bên ngoài tan biến vào thân thể . Thân tan biến vào Hum . Hum vào Nada (21) và Nada vào không đại . Thiền định về tánh không và giữ hơi thở . Sau khi xuất khỏi định , thiền giả tiếp tục mô phỏng thân huyễn của Phật Bổn Tôn . . .
Vài người nói rằng : Điều này chỉ nên làm vào ban đêm . Hoàn toàn sai . Vì thật ra nếu thực hành điều đó suốt ngày sẽ tăng cường lớn lao cơ hội để làm chủ tâm khí ; và củng cố sự phát lộ của ánh sáng . Nên rất dễ dàng nhận ra ánh sáng trong khi ngủ . Ngoài ra , còn có những lợi ích lớn lao nhờ giữ hơi thở vào cùng lúc ấy . Nhận ra ánh Sáng bằng những phương pháp khác thì rất khó khăn ; và ánh sáng được nhận ra như vậy không thể dài lâu . . . Theo phương pháp này chắc chắn đem được khí vào kinh mạch trung ương và khai mở bốn cái Không . . . Thế nên , sự thực hành này được quan trọng nhất về Yoga ánh sáng .
Giữ Ánh Sáng
Trong Khi Ngủ
Nếu trong thực hành ban ngày đã đạt đến định vững chắc . Sức mạnh của đị sẽ xuyên suốt ngày và đêm bao gồm những trạng thái ngủ và mộng . hiền giả không còn mộng . Nhưng nếu có mộng có thể nhận ra lập tức . Nhưng vài vị Guru nói rằng : Đây không phải là ánh sáng của giấc ngủ . Đó chỉ là kinh nghiệm của định trong trạng thái ngủ .
5.
Những Giáo Huấn về
Yoga Trung ấm
Để thực hành Yoga Trung ấm ( Bardo ) . Trước hết cần hiểu những nguyên lý căn bản của Trung ấm . Sự hiểu biết này có thể tìm thấy ở nhiều nguồn . Có thể đọc rộng chủ đề này từ nhiều Kinh và Tantra là điều cần thiết . Sau đây là tóm tắt về hiện tượng chết :
1-
Khi Sắc Uẩn bắt đầu tan rã sẽ cảm thấy yếu đến kiệt sức ;
Khi địa đại bắt đầu tan rã , thân thể trở nên khô khốc .
Khi căn mắt tan rã ;
Không thể chuyển động tròng mắt hay thấy rõ .
Khi yếu tố Đại Viên Cảnh Trí (23) bắt đầu biến mất ;
Tâm thức trở nên mờ đục và tối tăm . . .

2-
Khi Thọ Uẩn bắt đầu tan rã ;
Cảm thấy uể oải và tê liệt .
Khi Thủy đại tan rã ,
Bài tiết trong thân ngừng lại .
Khi căn tai tan rã ;
Không thể nghe nữa .
Khi yếu tố Bình đẳng Tánh Trí biến mất ;
Không thể phân biệt giữa lạc và khổ .

3-
Khi Tưởng Uẩn bắt đầu tan rã ;
Không thể thấy vật nào ở bên ngoài .
Khi Hỏa đại bắt đầu tan rã .
Không thể tiêu hóa .
Khi căn mũi bắt đầu hư hỏng ;
Khí phía bên trên chảy xuống dưới và không đều đặn .
Khi căn để ngửi tan rã ,
Không thể phân biệt được mùi .
Khi yếu tố Diệu Quan Sát Trí biến mất ;
Không thể nhận ra người thân đứng chung quanh .

4-
Khi Hành Uẩn tan rã ;
Không thể làm gì nữa cả .
Khi yếu tố khí tan rã ,
Mười Khí sẽ trở lại nơi chúng đã đến .
Khi căn lưỡi tan rã .
Lưỡi rút lại và dày ra .
Khi căn nếm hư hoại ;
Không thể phân biệt các vị .
Khi yếu tố Thành Sở Tác Trí biến mất ;
Không thể hành động hay có ý muốn .

Theo Kinh Văn khác :
Những thông tin về cái chết như sau :

1-
Khi địa đại tan vào trong Thủy đại ;
Dấu hiệu bên ngoài là không thể cử động thân ,
Cảm thấy như mất hết mọi điểm tựa và sắp sụp đổ .
Muốn kêu lên : “Làm ơn giúp tôi đứng dậy ! ” .
Dấu hiệu bên trong là :
Thức hiện ra như những đám mây khói cuộn xoáy .

2-
Khi Thủy đại tan vào trong Hỏa đại ;
Dấu hiệu bên ngoài là khô cạn hết các nước bài tiết .
Dấu hiệu bên trong là :
Thức hiện ra như những ảo ảnh thay đổi ;
Và tất cả ba mươi tư tưởng phân biệt của sân (23) lắng xuống .

3-
Khi Hỏa đại tan vào trong Phong đại dấu hiệu bên ngoài là :
Sút giảm mạnh thân nhiệt và những ngón tay và ngón chân tê cóng .
Dấu hiệu bên trong là :
Thức hiện lập lòe lờ mờ của đom đóm và ;
Và bốn mươi tư tưởng phân biệt của tham lắng xuống .

4-
Khi Phong đại tan vào trong Thức đại dấu hiệu bên ngoài là :
Hơi thở ra của người đang chết rất dài và hơi thở vào rất ngắn .
Dấu hiệu bên trong là :
Thức xuất hiện như ánh sáng đèn trong trẻo và ổn định, ,
Tất cả bảy tư tưởng phân biệt của si ( vô minh ) lắng xuống .

Theo Kinh điển :
Những dấu hiệu cái chết xuất hiện lần lượt hay tất cả trong một lần tùy theo cá nhân . Khi những nguyên tố vi tế tan rã , người chết sẽ có những kinh nghiệm như sau :
1-
Khi ý thức tan vào “Ánh Sáng Xuất Hiện ” ;
Sẽ thấy ánh sáng như :
Ánh sáng trăng trong bầu trời không mây .

2-
Khi “ Ánh Sáng Xuất Hiện tan vào “Ánh Sáng Tăng Trưởng ” ;
Sẽ thấy :
Vệt sáng màu xanh pha đỏ như lúc bình minh .

3-
Khi “ Ánh Sáng Tăng Trưởng ” tan vào “Ánh Sáng Đạt Đến ” ;
Sẽ trãi nghiệm :
Bóng tối hoàn toàn và mất hết ý thức .

4-
Trạng thái vô thức ;
Sẽ tan vào Ánh Sáng Cái Không sáng tỏ ;
Và trong suốt như bầu trời không mây lúc bình minh ,
Vượt mọi nhiễm ô vi tế của ba giai đoạn trước sẽ xuất hiện .
Đây là :
“ Ánh Sáng Cái Chết Toàn Diện” hay “Ánh Sáng Bổn Nguyên . . . ” .
Khi những nguyên tố khác nhau tan biến ( Cái này lần lượt sau cái kia ) . Cuối cùng nguyên tố khí tan vào thức ở Trung Tâm Tim . Bấy giờ Hạt trắng ở Trung Tâm đầu đi xuống và Hạt đỏ ở Trung Tâm Rốn đi lên . Hai hạt sẽ hợp với nhau ở Trung Tâm Tim . Khi những hạt trắng và đỏ hòa lẫn hoàn toàn . Ánh Sáng Cái Chết sẽ xuất hiện . Mỗi chúng sinh trong sáu cõi đều thấy ánh Sáng của Cái Chết lúc chấm dứt cuộc đời . Nhưng tiếc thay họ không thể nhận ra nó và nắm giữ được . . .
Sự Khởi Dậy của Trung ấm
Tiến trình này ngược lại từ : “Ánh Sáng Cái Chết - “Ánh Sáng Đạt Đến ” – “Ánh Sáng Tăng Trưởng ” và “Ánh Sáng Xuất Hiện ” lần lượt sinh khởi . Khi ngủ khí bắt đầu chuyển động . “Ánh Sáng Đạt Đến ” khởi dậy . Sau đó tức thời “ Ánh Sáng Tăng Trưởng Xuất Hiện ” tiếp theo . Bấy giờ tám mươi tư tưởng phân biệt sẽ sinh khởi . Kết quả là mọi biểu lộ huyễn ảo trong trung ấm sẽ xuất hiện…
Câu hỏi dùng để tranh luận thường được đặt ra ở đây là : “ Thân thể và gương mặt của người ở trong Trung ấm như thế nào ? ” . Theo hai anh em Vô Trước và Thế Thân : Chúng mang hình dáng của thân tái sinh sắp tới . Nhưng những vị khác lại nói chúng giống như thân thể và khuôn mặt của kiếp vừa qua .
Nhưng theo các bậc thầy truyền dòng : Trong giai đoạn đầu của Trung ấm thân và mặt giống như kiếp vừa qua . Về sau dần dần phai nhạt cho đến những giai đoạn cuối của Trung ấm sẽ có hình dáng của tái sinh sắp tới . Lý thuyết này không chỉ hợp lý mà còn phù hợp với kinh điển . Vì rất nhiều kinh chỉ rõ sự hiện hữu của “ Thân thói quen ” trong Trung ấm được tạo hình theo kiếp vừa qua .
Đại Bình Giảng về Tantra Kalachakra cũng đồng ý như vậy . Điểm này sẽ hoàn toàn rõ ràng nếu lấy những giấc mộng làm thí dụ . Trong mộng , vì suy nghĩ theo thói quen chúng ta không thay đổi mặt mày và hình dạng . Cũng vậy , những tư tưởng theo thói quen sẽ tiếp tục duy trì hình dạng của người đó trong phần đầu của Trung ấm . Chỉ về sau , khi những tư tưởng thói quen của đời trước đã nhạt dần mới xuất hiện hình dạng mới giống như tái sinh sắp tới .
Người ở trong Trung ấm có đầy đủ tất cả các giác quan và có thể du hành bất kỳ nơi đâu không ngần ngại , trừ nơi người ấy sẽ phải tái sinh . Nó có một số năng lực siêu nhiên thuộc sinh tử , ăn bằng mùi hương của thức ăn và có thể thấy những họ hàng bà con đang ở trong Trung ấm . Nếu người ở trong Trung ấm tái sinh vào những cõi khổ, nó sẽ có một thị kiến về bóng tối thăm thẳm hay một đêm mưa tối tăm . . . Nếu sinh vào cõi sung sướng sẽ thấy một ánh sáng trắng tỏa chiếu như mặt trăng . . .
Kinh khác có nói :
“ Những người sinh vào địa Ngục sẽ thấy mọi sự vật màu nâu đen như gỗ cháy . Những người sinh vào cõi quỷ đói sẽ thấy những màu khói . Những người sắp sinh vào cõi trời sẽ thấy ánh sáng màu kim loại vàng . Những người sinh vào cõi trời vô sắc sẽ không có kinh nghiệm Trung ấm mà sẽ tái sinh vào cõi vô sắc lập tức sau khi chết . . . Tuy nhiên lại nói rằng : Những chúng sinh ở cõi trời vô sắc phải sinh lại trong những cõi thấp thì sẽ lại kinh nghiệm Trung ấm . . . ”
Khi nguyên tố Đất bị biến động ,
Người trong Trung ấm nghe những tiếng như sấm nổ .
Khi nguyên tố Nưóc bị biến động ,
Người trong Trung ấm nghe tiếng trầm trầm của sóng biển .
Khi nguyên tố Lửa biến động ,
Người trong Trung ấm nghe tiếng gầm rú của một khu rừng bốc cháy .
Khi nguyên tố Gió biến động ,
Người trong Trung ấm nghe tiếng gào thét của bão tố . . .
Ba độc tham , sân , si ;
Cho người ở trong Trung ấm có nhiều loại thị kiến :
Màu trắng , đỏ và đen đáng sợ khiến nó rối bời .
Những tư tưởng thói quen phóng chiếu ;
Trở thành ma quỷ đến gần để làm hại .

Người ở trong Trung ấm được nói là có những phẩm tính :

1-
Thân không bị chướng ngại và không in bóng ;
Trong phút giây có thể đi đến những vùng ở xa .

2-
Nhữngchúng sinh ở những cõi khác ;
Không thể chứng kiến những hành vi của thân trung ấm .

3-
Có thiên nhãn và tha tâm thông.

4-
Không thấy mặt trời , mặt trăng và những ngôi sao .

5-
Thấy được tính bẩm sinh ghi giữ chi tiết ;
Mọi hành vi thiện ác đã làm trong đời trước .

6-
Dù thấy thức ăn ,
vẫn không thể hưởng trừ phi được cúng .
Với những diễn tả ở trên , đừng xem là tất yếu hay bất biến . Vì nghiệp mỗi người mỗi khác và những biểu lộ cũng có nhiều khác biệt . Trong nhiều cách , trạng thái Trung ấm giống như trạng thái mộng . Bản chất nó không vững bền và không thể xác định . Theo kinh sách : Độ dài tối đa của cuộc sống trung ấm là bảy ngày . Trong thời gian đó chưa thể tái sinh , thân này sẽ “ chết ” hay rơi vào không biết để tái sinh tức thời trong trạng thái trung ấm thứ hai . Tiến trình này có thể lập lại bảy lần là bốn mươi chín ngày .
Thân trung ấm sẽ tái sinh
vào chỗ thấy yêu thích

Tái sinh qua sự ẩm ướt hay hơi ấm ;
Vì thích thú khói và mùi hương .

Tái sinh trong hình thức sâu bọ hay trứng ;
Vì cảm thấy ái dục mạnh mẽ và giận ghét ,
Đối với cha hay mẹ khi thấy họ giao hợp .

Tái sinh làm người nam sẽ yêu mẹ ghét cha và ngược lại .
Vì khi ái dục và giận ghét sinh khởi ,
Người trong trung ấm rơi vào trạng thái không biết gì ,
Nên sở ái sẽ định hướng tái sinh . . .

Tái sinh vào cõi khổ ;
Do thấy nhiều thị kiến đáng sợ và cố gắng tránh một cách vô vọng .
Nếu lẫn trốn vào hang , hố hay cây cối sẽ sinh làm thú ;
Nếu tránh vào ngôi nhà sắt sẽ sinh vào địa ngục . . .
Khi người trong trung ấm chết cũng sẽ trải qua bốn giai đoạn của tiến trình tan rã : Nghĩa là : Các khí lần lượt tan vào sự Xuất Hiện , Tăng Trưởng , Đạt Đến, và Ánh Sáng Bổn Nguyên . Bấy giờ tiến trình ngược lại bắt đầu từ : Ánh Sáng Bổn Nguyên - Đạt Đến - Tăng Trưởng và Xuất Hiện . Sau đó là tám mươi Tư tưởng phân biệt - Nguyên tố khí , lửa , nước . . . Cho đến khi thân tâm được hoàn thành với những nguyên tố mới .
Cơ Hội của Trung ấm
Vào lúc chết , ánh sáng Con và Mẹ hòa tan vào nhau . Mọi nhiễm ô vi tế của tư tưởng phân biệt sẽ lắng dứt . Vào thời điểm này một thiền giả cao cấp đã làm chủ cả hai giai đoạn Phát Sinh và Thành Tựu và có thể đạt đến Phật quả và những công đức trọn vẹn . Người bậc khá thực hành Đại ấn huy hoàng suốt ngày và đêm , cũng có thể nắm giữ ánh sáng của Cái Chết . Khi những thị kiến của Trung ấm xuất hiện , họ có thể sử dụng chúng để tăng them chứng ngộ .
Một số người cho rằng :
Dù ít công đức và ít chuẩn bị , vẫn có thể chứng ngộ Pháp thân vào lúc chết khi Báo thân , Hóa thân trong trạng thái Trung ấm . Nhưng điều này không có căn cứ và trái với kinh điển . Những người chủ trương như vậy không hiểu nắm giữ được ánh sáng hay Tịnh Quang dù chỉ thời gian ngắn là cực kỳ khó khăn . Nhất là giữ một cách không rối trước những thị kiến khủng khiếp hoảng loạn của Trung ấm . Hơn nữa dùng chúng nhưphương tiện để thâm nhập vào quả là quá khó khăn .
Điều này được minh chứng rõ ràng như khi chúng ta đang sống . Nhưng rất khó khăn để nhận ra ánh aáng trong giấc ngủ và ánh sáng của giấc mộng ngay tức thời . Thậm chí có thể nhận ra ánh sáng và những giấc mộng . Nhưng không thể giữ vững , cũng như không thể làm chủ và chuyển hóa những giấc mộng như mong muốn . Nhận xét này không bao hàm ý bác bỏ những người chuẩn bị và thực hành trong suốt đời sống sẽ nhờ đó mà lợi lạc khi chết và trong trung ấm .
Mọi biểu lộ của thế giới này . Thật ra chỉ là những biểu hiện của trung ấm và tất cả hiện hữu sinh tử cũng là những biểu hiện của Trung ấm . Thời gian giữa sinh và tử được gọi là : “ Trung ấm giữa sống và chết ” . Khi rơi vào giấc ngủ đến khi thức dậy là : “ Trung ấm của giấc mộng ” . Chết đến tái sinh là : “ Trung ấm sau khi chết ” . Trong cả ba Trung ấm :
Yoga Tumo và Yoga Thân Huyễn ;
Áp dụng cho “ Trung ấm giữa sống chết ” .

Yoga ánh sáng và Yoga giấc mộng ;
Áp dụng cho “ Trung ấm của giấc ngủ ” .

Yoga Trung ấm và Yoga Chuyển Di ;
Áp dụng cho “ Trung ấm sau khi chết ” .
Trong cả trạng thái thức và trạng thái ngủ . Cần nghĩ rằng mọi cái thấy , nghe , xúc chạm . . . đều ở trong trạng thái Trung ấm . thế nên cần thực hành liên tục và lập lại giáo huấn này ; chính là sự chuẩn bị tuyệt hảo cho cõi trung ấm về sau .
Nhiều bậc thầy đã nói :
“ Khi thực hành Yoga Trung ấm ; chớ quên những giáo huấn dù chỉ một giây . Cho dù có bảy con chó dữ rượt đuổi . Khi thời điểm chết đến gần , nên cúng dường tài sản, và những sở hữu cho Tam Bảo . Làm từ thiện bố thí không tiếc rẻ , cắt đứt mọi bám luyến . Tuân thủ chặt chẽ những giới luật Samaya và sám hối mọi lỗi vi phạm và những hành vi tội lỗi . . .
Vào lúc này rất cần vị thầy hay Phật quán đảnh lại để tái lập giới luật Samaya nếu đã làm hư hoại chúng . Cần thành tâm cầu nguyện thầy và Phật Bổn Tôn hộ trì cho để giữ được ánh sáng của cái chết và thân Huyễn trong trung ấm . Nên nương dựa vào những bạn đạo để nhắc những giáo huấn nơi giưòng chết ” .
Thiền giả cao cấp ; vào lúc chết cần thực hành Yoga Hòa Tan và tập trung vào Tinh Túy Tự Sáng Tỏ để hòa lẫn vào ánh Sáng của Cái Chết . Sau đó từ ánh Sáng cố gắng khởi Báo thân và Hóa thân toàn hảo bằng Tâm-Khí .
Những thiền giả rất cao cấp đã đạt đến giai đoạn thứ Tư của Đại ấn . Chắc chắn có thể hòa lẫn ánh Sáng Mẹ và Con vào lúc chết . Bấy giờ tất cả những trói buộc của thân nghiệp báo . Những biểu lộ và của tâm sẽ cắt đứt và mọi công đức của Phật quả sẽ được trọn vẹn . Tâm của họ sẽ thành Pháp thân , thân sẽ thành Thân của Trí Huệ và cõi nước là Cõi Nước của Toàn Thiện và Thanh Tịnh .
Những thiền giả khá cao cấp cũng thực hành như thiền giả cao cấp nhất . Nếu có thể thành công , họ sẽ bỏ qua giai đoạn trung ấm và đạt đến địa cao hơn trong con đường . Nếu không , cần nhiệt thành cầu nguyện được sinh vào cõi Tịnh độ của Phật và áp dụng giáo lý của Yoga Chuyển Di . . .
Những thiền giả kém , không thể nắm giữ ánh sáng cái chết và thân huyễn . Cần cố gắng cảnh tỉnh chánh niệm và với sự hiểu xác định với niềm tin không lay chuyển . Cần áp dụng những giáo huấn để đối mặt với cái chết và Trung ấm . Người không thể dùng cơ hội của cái chết và trung ấm để đạt giải thoát ; sẽ bị nghiệp bó buộc tái sinh lần nữa trong sinh tử . Để ngăn ngừa điều nà y, những giáo huấn sau cần được áp dụng :
Người ở trong Trung ấm đến nơi chốn hấp dẫn . Cần quán tưởng nơi chốn đó là Mandala Phật Bổn Tôn . Khi ái dục và giận ghét sinh khởi vì thấy sự giao hợp của nam và nữ . Cần tự cảnh giác và nghĩ rằng đây là quán đảnh thứ ba của các vị Phật Cha và Mẹ . Nên nhận biết kinh nghiệm Lạc và Không . Quán sát cả tham và sân đều như huyễn và tất cả là trống không .
Bằng cách chú trọng cái thấy tánh Không như vậy . Có thể tự giải thoát vĩnh viễn khỏi sinh tử . Nếu người trong trung ấm có thể thành công điều này và trốn thoát tái sinh trong bảy ngày đầu , sẽ không khó khăn làm được việc đó trong những ngày sau . Tự nhiên họ sẽ sinh được vào Tịnh độ của Phật Bổn tôn và hoàn thành con đường . Nếu người trong Trung ấm muốn sinh về cõi Tịnh độ của Phật , cần khai triển sự mong muốn mạnh mẽ được sinh về đó . Đây là điều quan trọng cốt tử . Bấy giờ nếu biết áp dụng giáo huấn Yoga Chuyển Di . Trong một sát na sẽ sinh vào Tịnh độ . . . Lợi lạc của Yoga Trung ấm có thể tóm tắt như sau :
1-
Pháp thân có thể chứng ngộ vào lúc chết .

2-
Báo thân khi ở trong Trung ấm .

3-
Hóa thân vào lúc tái sinh .

Đây gọi là Con đường dẫn đến sự thành tựu Ba Thân Phật .

6.
Những Giáo Huấn về Yoga
Chuyển Di
Yoga Chuyển Di là giáo lý nhằm đem tâm thức người ta đến một cõi Tịnh độ của Phật, hay cõi tái sinh cao hơn . Đối với những thiền giả cao cấp có thể nắm giữ ánh sáng của cái chết và thân huyễn của trung ấm , Yoga này không cần thiết . Nhưng với những người chưa đạt được những giai đoạn cao cấp thì pháp này cực kỳ quan trọng
Người đã làm chủ được giai đoạn Phát Sinh . Với sự làm chủ được những khí và kinh mạch ( phần nào giai đoạn Thành Tựu) , và cái thấy Đại ấn là người đủ tư cách để thực hành Yoga này . Người nào không thể thực hành , ít nhất cũng có niềm tin lớn lao vào giáo lý này , tin sâu luật nhân quả và hiểu thấu suốt nghĩa và tiến trình của thực hành . Họ cần phải thông thạo trong việc giữ Hơi Thở Bình trong Yoga Nội Nhiệt .
Lời Kết
Người thực hành giáo lý sâu xa Sáu Yoga . Không nên bằng lòng và tự mãn với những kinh nghiệm tốt đẹp nhỏ bé có được trong thiền định . Thay vì thế , cần thực hành chuyên cần và khiêm tốn cho đến lúc chấm dứt cuộc đời . . . Nếu thiếu cương quyết và kiên trì . Nên thiền định về sự chóng vánh của cuộc đời và khổ đau của sinh tử . . . Nếu ích kỷ và chấp ngã , nên thiền định về lòng bi , thiện ý và Bồ đề tâm . . .
Khi thực hành Sáu Yoga . Không bao giờ bỏ qua thiền định về Pháp căn bản như : Cầu nguyện Quy y , thiền định về lòng Bi và Bồ đề tâm , sám hối , lễ lạy , hồi hướng . . . Cần thực hành ít nhất một hay hai thời mỗi ngày . Về phần những thiền định chính của Sáu Yoga , nên thực hành bốn đến sáu lần mỗi ngày như : Khi thức thực hành Yoga Nội Nhiệt và Yoga Thân Huyễn . Khi ngủ thực hành Yoga ánh sáng và Yoga mộng .
Người không làm chủ được Yoga Nội Nhiệt . Không thể cho khí đi vào , ở lại và tan vào trong Kinh Mạch Trung ương . Cũng không thể phát hiện Bốn Cái Không hay Bốn Lạc và không thể phóng xuất thân huyễn từ ánh sáng được . Kết quả không thể thực hành Yoga Giấc Mộng và Yoga Trung ấm một cách thích đáng . . . Đó là lý do Nội Nhiệt Tumo được xem là thực hành quan trọng nhất trong Sáu Yoga . Bởi thế cần để ít nhất một nửa hay một phần ba thời gian cho thực hành Tumo . Dù công việc chính là những Yoga khác của Sáu Yoga . Đôi lúc cũng cần thực hành Yoga Trung ấm và Yoga Chuyển Di cho thuần thục .
Những Liên Kết Sáu Yoga
( Vì Mật thừa đặt nền trên cái thấy về sự đồng nhất của sinh tử và Niết bàn . Sự thăng hoa của những phiền não , và sự biểu lộ của Ba Thân Vốn Sẵn ) . Như vậy , thực hành Sáu Yoga có thể “ nối kết ” hay “ kết hợp ” với phiền não và Ba Thân Phật bằng một số cách . Thực hành Yoga Tumo và Yoga Thân Huyễn trong trạng thái thức có thể được “ kết hợp ”với yếu tố tham . Yoga Ánh Sáng và Yoga Giấc Mộng với si ( vô minh ) . Yoga Trung ấm và Yoga Thân Huyễn với sân . . .
Trầm mình vào ánh Sáng Bổn Nguyên là kết hợp với Pháp thân . Phóng xuất từ ánh Sáng ra Thân Huyễn làm bằng Tâm-Khí là kết hợp với Báo thân . Hòa tan những nguyên tố thô vào Kinh Mạch Trung ương và chuyển hóa chúng thành một Mạn đà la là kết hợp với Hóa thân . . .
Vào lúc chết , trầm mình trong ánh Sáng Bổn Nguyên là kết hợp với Pháp thân . Phóng xuất Thân Huyễn trong trạng thái Trung ấm là kết hợp với Báo thân . Và tái sinh trong những nơi chốn và hình thức khác nhau là kết hợp với Báo thân . . . Lại nữa , lúc ngủ tương ứng với Pháp thân . Mộng tương ứng với Báo thân và thức dậy tương ứng với Hóa thân . . . Có nhiều cách khác để “ liên kết ” hay “kết hợp” Sáu Yoga với Ba Thân và những phiền não . Nhưng nói như ở trên cũng đủ để minh họa nguyên lý tổng quát .
Những thiền giả đã làm chủ cả hai Yoga giai đoạn Phát Sinh và giai đoạn Thành Tựu . Mong mỏi đạt Phật quả hoàn toàn ngay trong đời này . Cần phải thực hành “ Hành Vi Bí Mật ” . Tuy nhiên ngày nay ở Tây Tạng , có rất ít thiền giả làm được điều đó . Bởi thế , không cần thiết nói kỹ chủ đề này ở đây . Những người muốn biết sẽ tham khảo ở các nguồn khác .
Theo những vị thầy của dòng khẩu truyền hay “ thầm thì bên tai ” . Người thực hành những Hành Vi Bí Mật . Không chỉ hoàn thành hai giai đoạn Phát Sinh và Thành Tựu . Họ còn phải thực hành bản thân hành vi ấy đúng theo những giới luật của Tiểu thừa và đại thừa . Không được nói những nhận xét thế phàm . Thường xuyên đến những nghĩa địa , rừng núi hẻo lánh và mọi nơi vắng vẻ để thực hành những dâng cúng và những hành vi theo Mật thừa .
Như một con thú bị thương , tâm không còn lưu ý chút gì thế gian này . Như con sư tử , họ đi bất cứ nơi nào cũng không sợ hãi . Họ hành động như gió trong bầu trời và xem cuộc đời này chẳng đáng giá gì . Tâm không có đối tượng như hư không ; nên những hành động tự do như của một người điên không phân biệt . . .
Những Thành Tựu của Sáu Yoga
Có hai loại thành tựu có thể có từ sự thực hành Sáu Yoga . Một cái thuộc về thế gian và cái kia là siêu thế gian . Thành tựu thuộc thế gian bao gồm :
(A)
Thành Tựu Thế Gian
Bốn Thực Hiện :

1-
Đạt được năng lực ngăn chặn những tai họa và rủi ro
cho mình và người khác .

2-
Đạt được năng lực tăng thêm công đức và may mắn .

3-
Năng lực chỉ thu hút những cái đáng ưa .

4-
Năng lực chiến thắng mọi trở ngại và tà ma .

Tám Thành Tựu ( Siddhi ) :

1-
Đạt được thanh gươm huyền bí mang lại mọi ước muốn .

2-
Đạt được những viên thuốc thần diệu với năng lực chữa lành .

3-
Đạt được thiên nhãn .

4-
Thần lực đi nhanh .

5-
Một thuốc chuyển hóa già thành trẻ .

6-
Năng lực tham gia vào công việc của những thiên nữ .

7-
Năng lực che dấu mình giữa đám đông .

8-
Năng lực đi xuyên qua tường , đá , núi . . .
Những thành tựu thế gian có thể đạt được chỉ bằng cách thực hành Yoga Phát Sinh . Nhưng Thành Tựu Siêu Thế Gian hay Tối Thượng chỉ đạt được qua sự phối hợp của Yoga Phát Sinh và Yoga Thành Tựu . . .
(B)
Thành Tựu Siêu Thế Gian

Một thảo luận ngắn những giai đoạn khác nhau của Thành Tựu Siêu Thế Gian .

Bốn giai đoạn trong Con đường là :

1-
Người đã đi vào con đường . Hoàn toàn củng cố những thực hành và những kinh nghiệm của cả hai Yoga ( Phát Sinh và Thành Tựu ) , được xem là đạt đến giai đoạn thứ nhất - Giai đoạn Thu Thập Lương Thực Dự Trữ ( Tư lương vị ) .
2-
Người có thể dẫn Tâm-Khí vào Kinh Mạch Trung ương và phát khởi “ Bốn Lạc trong tiến trình đi Xuống ” . Nhờ sự đi xuống của yếu tố Tâm-Khí thanh tịnh , kinh nghiệm trực tiếp Lạc-Không , sẽ được tăng trưởng rất nhiều công đức thế gian của khí và kinh mạch là : Đạt đến giai đoạn thứ hai – Giai đoạn Thấy ( Kiến đạo vị ) .
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa   Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitimeThu Jan 19, 2012 5:59 am


Người có thể dẩy lên yếu tố thanh tịnh của hạt ( Tig-le ) theo kinh mạch trung ương , làm phát khởi “ Bốn Lạc trong tiến trình đi Lên ” . Ổn định hạt trong trung tâm đầu . Lần lượt những nút thắt làm vướng mắc kinh mạch trung ương tự khai mở . Quét sạch mọi kết bế trong sáu luân xa và tuần tự loại bỏ hai mươi mốt ngàn sáu trăm khí thuộc nghiệp là ; Đạt đến giai đoạn thứ ba và thứ tư - gồm những Giai đoạn Giác Ngộ Ban đầu và Giác Ngộ Sâu Hơn từ địa thứ nhất đến địa thứ mười hai .
4-
Người có thể tịnh hóa những khí , kinh mạch và hạt vi tế nhất . Chuyển hóa thân vật chất thành thân Cầu Vồng . Tịnh hóa ba mươi hai kinh mạch và tám mươi tư tưởng phân biệt . Như thế có thể làm hiển lộ ba mươi hai tướng chánh và tám mươi tướng phụ của Thân Phật được gọi là : Đạt đến Phật quả hoàn toàn của địa thứ mười ba của Vajradhara . Vì Tâm-Khí của họ là Tâm-Khí của Trí Huệ . Vì âm A và âm Ham (24) hợp nhất trọn vẹn . Có nghĩa đạt được Báo thân tối hậu Hai trong Một của Phật quả .
Sự không phân biệt của lòng Bi và tánh Không từ họ được gọi là Pháp thân . Đại Lạc và Vinh Quang vô biên từ họ được gọi là Báo thân . Vô số sắc tướng và phô diễn sinh ra cho lợi lạc của chúng sinh từ họ được gọi là Hóa thân. . Nhất thể của ba thân này được gọi là Pháp Giới thân hay Kim cang thâ n ( Toàn Thể tánh ) . Với Bốn Thân này họ sẽ chuyển Bánh Xe Pháp để giải thoát cho tất cả chúng sinh đến khi sinh tử chấm dứt . . .
Chú Thích
1-Gampopa : Đệ tử chính của Milerepa . Là Đại học giả và thiền giả vào thế kỷ 12 đã truyền rộng phái Kagyu ở Tây Tạng .
2-Hai Yoga : trong Tantra Anuttara ( vô thượng) có hai thực hành chính : một là Yoga giai đoạn Phát Sinh , hai là Yoga giai đoạn Thành Tựu . Yoga Phát Sinh là sự chuẩn bị cho cái sau . Nhấn mạnh vào những thực hành an định và quán chiếu . Những nét chính của nó gồm những bước sau :
1-
Quán tưởng mọi sự vật và tự thân tan vào đại Không .

2-
Quán tưởng trong Không một chủng tử tự ( Bija ) ;
tự chuyển hóa thành hình ảnh của Phật Bổn Tôn .

3-
Mô phỏng toàn thân Thân Phật Bổn Tôn gồm :
Ba Kinh Mạch Chính và Bốn Luân Xa.

4-
Mô phỏng Mandala và đồng hóa mọi biểu lộ với Phật tánh .

5-
Trì tụng Mật chú của Phật Bổn Tôn ;
Và áp dụng mô phỏng đặc biệt cho mục tiêu yoga đặc biệt .

6-
Mô phỏng mọi vật gồm cả Thân Phật Bổn Tôn
tan vào trong chủng tử tự trong Luân Xa Trái Tim ‘
Và chủng tử tự này lại hòa tan vào Không đại .

7-
Từ cái Không phóng ra Phật Bổn Tôn và Mandala .
Yoga này nhấn mạnh những quán tưởng và tu hành tâm linh căn cứ vào yoga đặt nền móng cho thực hành Yoga Thành Tựu . Nhưng vì điều này được làm với nỗ lực ý thức với “ tâm thế gian ” , nên không thể được xem là siêu vượt thế gian trong bản chất và chỉ được coi là thực hành sơ bộ cho những yoga cao hơn .
Yoga Thành Tựu là Yoga Mật thừa cao cấ . Mục tiêu chính yếu là khí ( prana ) thuộc nghiệp vào Kinh Mạch Trung ương và chuyển hóa chúng thành ánh Sáng-Trí Huệ và chứng ngộ Pháp thân . Từ Pháp thân, thiền giả được chỉ dạy phát khởi Báo thân và những Hóa thân . Trong nhóm Yoga Thành Tựu , Yoga Nội Nhiệt và Yoga Thân Huyễn là hai cái căn bản , còn những Yoga ánh Sáng, Giấc Mộng , Trung ấm và Chuyển Di chỉ phụ trợ .
a-
Xuất Hiện, Tăng Trưởng, và đạt đến là :
Ba giai đoạn trong đó Ba Cái Không tuần tự khởi hiện và tám mươi phân biệt và phiền não tuần tự chìm lặng trong tiến trình “ Hòa Tan của Tâm-Khí ” . Điều này có thể xảy ra trước giấc ngủ , vào lúc chết và khi khí đi vào kinh mạch trung ương .
b.
Demchog
( TT. bDem-mChog, Skt. Samvara ) :
Bổn tôn quan trọng của Tantra Mẹ.

c.
“ Chỗ mở ” trên đỉnh đầu .
Đây là cửa ra duy nhất cho thức con người có thể bỏ thân và sinh về cõi Phật thanh tịnh ( Skt. Brahmarandhara ) .
d..
Ba Kinh Mạch :
Trung ương , Phải và Trái là ba kinh mạch ( Nadi ) trong thân thể . Cả ba đều ở phần giữa của thân , chạy song song nhau dọc theo xương sống . Kinh Mạch Phải ( TT.Ro Ma ) được xem là thuộc về hệ mặt trời . Kinh Mạch Trái ( TT. Rkyan.Ma ) thuộc về hệ mặt trăng và Kinh Mạch Trung ương thuộc về sự hợp nhất của mặt trời và mặt trăng . Kinh mạch phải và trái được xem là những cái thuộc sinh tử và trung ương là kinh mạch dẫn đến niết bàn . Mô phỏng rõ ràng ba kinh mạch này là điều kiện tiên quyết cho thực hành Sáu Yoga .
e.
Bốn Luân Xa ( Skt. Cakra ) hay bốn Trung Tâm :
Đầu , cổ họng , ngực và rốn . Nối với Kinh Mạch Trung ương . Luân Xa đầu là : Trung Tâm Đại Lạc ; Luân Xa Cổ Họng : Trung Tâm Vui Thích . Luân Xa Tim : Trung Tâm của Pháp ; và Luân Xa Rốn : Trung Tâm Chuyển Hóa .
f.
Hạt (TT.Tigle, Skt. Bindu) là :
“ Điểm ” hay “ hạt ” thường được dùng trong những bản văn Mật thừa có nghĩa : “ Tinh chất ” của năng lực sinh khí . Hạt ( Tigle ) tương đương với Bồ đề tâm khi Bồ đề tâm được dùng theo nghĩa Mật thừa .
g.
Dùng ngón tay bít lỗ mũi trái và thở qua lỗ mũi phải . Và ngược tiến trình này , thở vào qua lỗ mũi trái : sẽ sớm nhận ra rằng một lỗ mũi cho không khí vào nhiều hơn lỗ mũi kia . Theo sinh lý học Mật thừa , có sáu thời kỳ trong hai mươi bốn giờ hai lỗ mũi thở bằng nhau . Do những thay đổi về khí ở Luân Xa Rốn .
Phán đoán căn cứ vào thời gian và sức mạnh của hơi thở qua hai lỗ mũi , thiền giả có thể tiên đoán nhiều biến cố quan trọng ảnh hưởng đến mình và thế giới . Nghệ thuật này được nói chi tiết trong cuốn sách của Karmapa Rangjung Dorje . Nghĩa Bên Trong Sâu Xa và nhiều sách khác .
h.
Chủng tử tự ( Bija ) :
Tinh túy hay những biểu tượng chính của một bổn tôn hay của một luân xa , một đại lạc . Người ta tin rằng làm việc với một chủng tử tự có thể đánh thức hay làm chủ một đại mà nó đại diện.
i.
Hơi thở Bình Luôn Luôn Vững Bền :
Một loại thở nhẹ và êm . Đặc điểm chính của nó là đặt áp lực thường trực và nhẹ nhàng ở phần bụng dưới .
j.
Bốn Trí Huệ-Lạc hay Bốn Trí Huệ Không-Lạc :
Theo đại thừa trí huệ về tánh Không thường được nhấn mạnh . Nhưng Trí Huệ Không-Lạc đặc trưng của Mật thừa là sự hợp nhất giữa tánh Không và Lạc .
k.
Đây là “ Hai mươi bốn chỗ tụ hội ” :
của những Dakini và thiền giả Mật thừa ở Ân độ .

l.
Yidam :
Phật Bổn Tôn do Thầy lựa chọn trong khi quán đảnh . Hành giả cần cầu nguyện và nương dựa vào vị ấy . Trong Yoga Phát sinh , thiền giả quán tưởng thân vật chất trở thành thân Phật Bổn Tôn . Thật ra ngài là sự nương dựa của thiền giả trong mọi thực hành .
Dakini :
Những “ Người nữ du hành trên không ” . Cũng là những nữ thần đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong Mật thừa .
Hộ pháp :
Những vị thần hoặc các vị trời bảo vệ và phục vụ cho thiền giả .

m.
Tám Sở đắc Thế Gian hay Tám Ngọn Gió Thế Gian :
Được , mất , khen , chê , vinh , nhục , vui , buồn .

n.
Yum :
Phật Mẫu.

o.
Thần chú Vajrasattva :
Thần chú nổi tiếng và quan trọng gồm một trăm âm . Dùng để tịnh hóa tội lỗi và trừ bỏ những cản trở tâm linh . Hầu hết các Lama đều trì tụng chú này vào mỗi ngày .
p.
Nếu không có vị thầy , thiền giả có thể cầu nguyện trực tiếp với Phật và nhận quán đảnh từ Phật nhờ quán tưởng và cầu nguyện .
q.
Nếu thiền giả Mật thừa tiếp xúc với người và những sự vật phi pháp . Hay đến những chỗ dơ nhiễm , người ấy có nguy cơ bị ô uế làm cho sự tiến bộ bị trở ngại .
r.
Bốn Cái Không của Giấc Ngủ :
Bốn sự biểu lộ lần lượt của cái Không xảy ra ngay trước hay sau giấc ngủ . Đó là : Không Ban đầu , Không Cùng Cực , Không Tối thượng , và Không Bổn Nguyên . Sự khác biệt của bốn cái Không ở chỗ mức độ sự sáng tỏ và triệt suốt .
s.
Khi chữ Hum tan , điểm chấm nhỏ sau cùng có thể thấy được gọi là Nada . . . Cũng có nói rằng : Nada là âm thanh huyền bí tự sinh không do đụng chạm giữa hai vật .
t.
Sắc thân (Rupakaya) :
Gồm Báo thân và Hóa thân của Phật quả .
u.
Yếu tố đại Viên Cảnh Trí ;
Ba mươi ba tư tưởng phân biệt của sân :
Vì thiếu sách Tây Tạng để quy chiếu , dịch giả ( Garma C.C. Chang ) không thể kể ra .
Với độc giả tiếng Việt , có thể tham khảo thêm Cái Chết Trong Phật Giáo Tây Tạng - Trí Huệ và đại Bi, đức Dalai Lama thứ 14, NXB. Thiện Tri Thức, 1998 (nhất là ở trang 232) và Tử thư Tây Tạng , Chogyam Trungpa , NXB . Thiện Tri Thức, 2000 .
3-
A :
A là chủng tử tự của Trung Tâm Rốn . Tượng trưng yếu tố dương ;
Ham là chủng tử tự của Trung Tâm đầu , tượng trưng yếu tố âm .
Hai cái này cũng còn gọi là Hạt Tigle hay Bồ đề Tâm, đỏ và trắng .
Cuốn “ Sáu Yoga của Naropa ” do Garma C.C.Chang đến đây là chấm dứt . Các dịch giả thêm vào ba bản văn trích từ quy ển Readings on Six Yogas of Naropa do Glenn H. Mullin dịch từ tiếng Tây Tạng ( Snow Lion Publications, 1997 ) để độc giả có thêm tài liệu nghiên cứu .




Phần III

Những Bản Văn Về Sáu Yoga
Của Naropa

Giáo Huấn Khẩu Truyền
Về Sáu Yoga

Đại Thành Tựu giả Ấn độ
Tilopa

Kính lễ Chakrasamvara Vinh Quang.

Hãy tận dụng nhân quả nghiệp báo ;
Chiết suất đưọc tinh túy tiềm năng làm người .

Yoga Nội Nhiệt

Thân thiền giả ,
Chứa đựng một nhóm những kinh mạch năng lực Thô và tế .
Có những trường năng lượng ,
Nên đưa chúng vào sự kiểm soát để sử dụng .
Phương pháp bắt đầu với những thực tập thân thể ,
Những sinh khí được hút vào để ,
Làm đầy, giữ lại và hòa tan .
Hai kinh mạch hai bên ,
Và kinh mạch trung ương avadhuti ;
Với bốn luân xa ( Chakra ) .
Những ngọn lửa khởi từ nội nhiệt Tumo (1) ở rún .
Dòng suối cam lồ tự giọt xuống ;
Từ chữ “ Ham ” ở đỉnh đầu .
Khơi dẫn bốn “ Lạc ” ,
Có bốn kết quả như quả tương tự với nhân .
Và sáu thực tập làm tăng trưởng ,
Đây là giáo huấn của Charyapa .

Yoga Thân Huyễn

Mọi vật sống động và vô tri trong ba cõi
Đều như những thí dụ về ảo ảnh , giấc mộng . . .
Hãy thấy điều này trong mọi lúc ,
Ngay cả khi chuyển động và yên lặng .
Hãy quan sát Bổn tôn như :
Ảo ảnh phản chiếu trong tấm gương .
Hãy lấy hình vẽ Vajrasattva và xem xét ;
Hình ảnh phản chiếu xuất hiện sống động như thế nào .
Như hình tướng ấy là hình tướng của ảo ảnh ,
Với tất cả mọi sự vật cũng thế .
Như vậy thiền giả quán sát mười hai sự so sánh ,
Và thấy sự thật của mọi sự chỉ là ảo ảnh như thế nào
Đây là giáo huấn của Nagarjuna ( Long Thọ ) .

Hãy biết những giấc mộng chỉ là những giấc mộng ,
Và thường trực thiền định về ý nghĩa sâu xa của chúng .
Hãy quán tưởng những chủng tử tự của năm đạ ,
Với “ hạt , nada và . . . ” .
Người ta tri giác chư Phật và những cõi Phật ,
Thời gian ngủ là thời giandành cho phương pháp ,
Đem đến sự thực hiện “ Đại lạc ” ,
Đây là giáo huấn của Lawapa .

Yoga Tịnh Quang

Thiền giả làm việc với kinh mạch trung ương ,
Để hết tâm vào kinh mạch trung ương ;
Và tập trung vào “ hạt ở trái tim ” .
Những thị kiến sinh khởi như :
Những ánh sáng , tia sáng , cầu vồng .
Ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng vừa mọc .
Mặt trời , mặt trăng và những hình tướng xuất hiện ;
Của những Bổn tôn và hình sắc ,
Trong cách này vô số thế giới được tịnh hóa .
Con đường Yoga kỳ diệu nhất này ,
Là giáo huấn của Nagarjuna .

Yoga Trung ấm

Thiền giả vào lúc chết rút hết những năng lực ;
Của những giác quan và những nguyên tố .
Hướng năng lực của mặt trời và mặt trăng đến trái tim ,
Làm khởi lên vô số Samadhi (Đại định ) .
Thức thường tham dự với những đối tượng bên ngoài ,
Nhưng chỉ nhìn chúng như những vật trong giấc mộng .
Những hình tướng xuất hiện của cái chết kéo dài bảy ngày ,
Hay nhiều nhất là bảy lần bảy và rồi phải nhận tái sinh .

Vào lúc đó hãy thiền định Yoga Bổn tôn ,
Hay chỉ đơn giản an trụ trong tánh không .
Sau đó khi thời gian tái sinh đến ,
Dùng Yoga Bổn tôn của vị thầy Mật thừa .
Thiền định về Guru Yoga với bất cứ cái gì xuất hiện ;
Làm như vậy sẽ khiến kinh nghiệm trung ấm dừng lại ,
Đây là giáo huấn của Sukhasiddhi .

Những Yoga Chuyển Di
&
Phóng Xuất

Nhờ những Yoga vào thời gian chuyển di ,
Phóng xuất mạnh mẽ vào thân khác .
Thiền giả có thể sử dụng chủng tử tự của Bổn tôn
Và thực hành yoga bổn tôn ;
Phối hợp với hơi thở ra và vào dài và ngắn ,
Để phóng xuất thức đến bất kỳ nơi đâu mình muốn .
Những người muốn chuyển di đến một cõi cao ,
Có thể chuyên tâm vào hai chữ “ Yam ” ;
Cũng như “ Hi-Ka và Hum-Hum ”.
Thức được phóng đến ;
Trái ti vủa bổn tôn không tách lìa khỏi Guru .
Từ đó đến bất cứ cõi Phật nào mong muốn ,
Đây cũng là giáo huấn của Sukhasiddhi .

Lời kết :

Viết ra từ lời dịch của Đại thành tựu giả Tilopa ,
Được dịch bởi Pandit trí giả Ân độ Naropa ;
Và Marpa Lodrakpa Chokyi Lotru ,
Ở thánh địa Kash-miri tức núi Pushpahara .

Những Câu Kệ Kim Cương
Của Truyền Thống
Thầm Thì Bên Tai

Đại Thành Tựu giả Ấn độ
Naropa

Kính lễ Phật Vajradhara siêu việt và viên thành.

Eh-ma-hoh ! ;
Giáo lý toàn hảo tối thượng của tất cả chư Phật .
Con đường tối thượng của trí huệ chiến thắng ,
Là thực tại vượt ngoài ngôn ngữ .
Nhưng một lần tôi nghe ;
Những lời của con đường vĩ đại vô sinh :
“ Ta , Vajradhara sẽ nói về nghĩa tốt lành ấy ;
Hãy kính lễ ,
Hỡi Jnana Dakini và lắng nghe ” .

Tư Cách của Vị Thầy và Học Trò

Vị thầy cao cả là :
Người đã uống say kinh nghiệm của Giới , Định và Huệ.

Học trò đủ tư cách là người có đầy đủ :
Tin tưởng , nghị lực , thông minh và lòng bi .
Thường nhớ nghĩ về những bất toàn của cuộc đời thế tục ;
Và đã vượt khỏi mọi lưu tâm đến thế gian .

Quán Đảnh Nhập Môn Và Những Yoga
Giai Của Goạn Phát Sinh

Lúc bắt đầu cần nương dựa vào ;
Truyền thống Mật thừa Chakrasamvara .
Bằng cách có bốn quán đảnh để vào ;
Mandala của sáu mươi hai vị thần bổn tôn .
Có lẽ cũng nên nhận bốn quán đảnh của mười lăm Dakini ,
Hãy làm trưởng thành tâm theo cách này .
Và thực hành trí huệ và phương tiện phối hợp.
Hãy nỗ lực hành bảy Yoga chẳng hạn :
Giống như vua và tể tướng .
Và hòa hợp tất cả thành một vị ,
Hãy chuyên tâm dựa vào giới luật Samaya .

Yoga Nội Nhiệt

Cột trụ của con đường là :
Sự tự cháy bừng nội nhiệt phúc lạc .
Với tư thế thân theo bảy điểm ;
Hãy thiền định về hình tướng Bổn tôn .
Với thân thể như một chiếc vỏ rỗng .
Hãy hình dung kinh mạch trung ương Avadhuti ,
Những kinh mạch hai bên Lalana và Rasana .
Và bốn luân xa ;
Với hình tướng của âm “ Ah và Ham” .

Sự bừng cháy và nhỏ giọt ,
Và sự đi vào kinh mạch trung ương ;
Làm cho những năng lực sinh khí đi xuống .
Hãy thiền định ;
Và trì tụng Kim Cương với năm năng lực gốc ,
Hãy giữ lại và ổn định những năng lực ;
Và khởi dẫn kinh nghiệm về trí huệ .
Hãy hòa nhập bốn lạc và hòa lẫn ;
Những năng lực gốc ;
Nnhững hạt năng lực và thức ,
Đi vào kinh mạch trung ương .
Tâm vượt khỏi ý niệm sinh khởi ,
Những xúc cảm méo mó sẽ tự-bình lặng .
Thế là ;
Dòng không dứt về lạc phúc và sáng chói bắt đầu tuôn chảy .

Yoga Thân Huyễn

Hãy thấy bản tánh của Pháp thân ;
Và trầm mình vào Pháp thân .
Để tăng cường tỉnh giác này ,
Hãy thiền định về bản chất như huyễn ,
Và tự-giải thoát của tám mối quan tâm thế gian .
Hãy thấy mọi sự trong sinh tử và niết bàn là ảo tưởng ;
Chúng chỉ như huyễn ,
Như mầu sắc cầu vồng và như trăng trong nước .

Những hiện tượng tác động xuất hiện từ tâm ;
Nếu chúng là thật và tĩnh đọng như có vẻ thế ,
Thế thì làm sao sự thay đổi có thể xảy ra ?
Bởi vì chúng là những hình tướng hư vọng ,
Và tận trong bản chất chúng là không thật .

Hãy thấy mọi hình tướng xuất hiện đều trống không,
Như tiếng dội trong hang .
Khi sự bám nắm vào nhị nguyên lắng xuống ,
Chúng ta sẽ thoát khỏi thích và ghét .
Với căn cứ là quán chiếu này ,
Tất cả mọi hành động đều thoát khỏi bám chấp .
Và tiến đến thành tựu thân cầu vồng và Pháp thân .

Yoga Giấc Mộng

Cuối cùng ;
Để chiếu rạng địa thứ mười và hoàn thành mục tiêu vĩ đại .
Nhất là tách lìa tịnh quang khỏi bóng tối vô minh .
Hãy trau dồi những phương pháp Yoga ;
Và đi vào bốn định ( Samadhi ) .

Hãy nhìn !
Hạt thiêng liêng không bị ba độc giam giữ .
Chúng ta giữ gìn khoảng giữa ;
Giấc ngủ và giấc mộng với những ý tưởng,
Hòa nhập bốn giai đoạn ;
Và hòa lẫn sự thực hành ngày và đêm .
Sự trải nghiệm không ngăn ngại ;
Và không thể diễn tả về tịnh quang sinh khởi .
Nó là trí huệ bổn nguyên ;
Thoát khỏi bám nắm vào sáng tỏ và tánh Không .
Và nhìn thấy bản thân Đại ấn .

Yoga Chuyển Di Thức

Phương pháp làm ra vàng của chuyển di thức ,
Nhờ đó Phật quả được thành tựu mà không cần thiền định .
Hãy chờ đợi những dấu hiệu của cái chết xảy ra ,
Và rồi ;
Để tâm trong trạng thái hoan hỷ không bám nắm .
Hãy đóng chín cửa thoát ra ,
Áp dụng những căn bản Mật thừa .
Trang hoàng sự thực hành với những nguyện vọng tâm linh ,
Năng lực và tâm được hòa trộn với “ Hum ” ;
Trong Kinh mạch trung ương .
Thần chú “ Ksha ” sáng chói ( tâm ) được phóng ra khỏi thân ,
Qua con đường của cổng Prama ,
Đuợc phóng đến Pháp thân Guru và đến cõi Phật .

Yoga Trau Dồi Cái Thấy

Để làm bật cháy sự rạng rỡ của trí huệ Đại ấn,
Hãy giữ ba cửa bất động và siết chặt năm giác quan .
Thấy mà không thấy gì ;
Hãy nhìn thẳng vào bản tánh của tâm .
Để tâm vào chánh vị không tạo tác và không một đối tượng .

Không nhìn ra ngoài ,
Hãy chứng ngộ bản tánh của tâm .
Từ nền tảng không tạo tác ;
Sự bắt đầu tự nhiên .
Hãy đặt nó vào ;
Truyền thống vĩ đại của người bình thường .

Không chuyển động ,
Nhận thấy ra bầu trời bao la của Pháp thân bất sinh bất diệt .
Dù nhiều hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài ,
Chúng chỉ là tâm của chính mình và không có sự hiện hữu nào khác,
Nào kể gì những méo mó , ý niệm , và bám nắm nhị nguyên có biểu lộ .
Và hãy nhìn xem !
Những thứ đó tự tan mất theo dòng của chúng.

Tinh túy của tâm là :
Vô sinh , tánh Không , Pháp thân .
Những hiện diện sáng chói không dứt sinh khởi là Hóa thân ;
Đại lạc vô trụ của hợp nhất là Báo thân .
Đây là nghĩa của Đại ấn hay Chak-gya chenpo ,
Chak ám chỉ mọi sự được nhìn với trí huệ bất nhị ;
Gya ám chỉ “ Lạc ” của sự cởi thoát những nút thắt của tâm thái sinh tử .
Và Chenpo có nghĩa là Pháp thân tự-giải thoát ,
Sinh từ ngọn đèn của hợp nhất hoàn hảo không từ cái gì khác .

Hai che chướng là tự-giải thoát ;
Chủ thể và đối tượng không còn phân cực .
Tâm sinh diệt và mọi sự vật trong Sinh tử và Niết bàn tự tan mất. ,
Phạm vi của hiểu biết là tự tròn đầy với mọi đức tính .
Và Chúng ta trở thành một vị Phật tự sinh ,
Vượt khỏi tư tưởng và lời nói .

Những Yoga Trung ấm

Nghĩa sâu xa đi vào trung ấm được phát lộ cắt đứt ba trung ấm :

1-
Trung ấm của sinh đến tử .

2-
Trung ấm của giấc mộng .

3-
Trung ấm của trở thành .

Không cho đó là cho ;
Không thấy đó là cái thấy tối thượng .
Đây là tâm tự-tỉnh giác rỡ ràng trống không ;
Vượi khỏi ý niệm và thoát khỏi mọi che chướng .
Đại lạc , cảnh giới của thực tại , trí huệ thanh tịnh rốt ráo ,
Vốn bất khả phân biểu lộ như ba thân .
Hãy nhìn !
Những người chưa chứng ngộ thực hành với ba trung ấm cần hòa hợp
Những yoga giai đoạn phát sinh , yoga thân huyễn
Yoga tịnh quang và Pháp thân .
Những nguyên tố :
Đất , nước , lửa , không khí tuần tự hòa tan .
Tâm tám mươi ý niệm được dừng lại, và ba thị kiến đi qua.
Yếu tố trắng , đỏ và bản thân tâm gom vào Hoa sen .
Khi điều này xảy ra ,
Hãy nhìn xem khuôn mặt Tâm tịnh quang
Hãy hòa lẫn ;
Hai tịnh quang mẹ và con thành không thể tách lìa .

Những Kết Quả Hành Giả
Thực Hành Tốt nhất Trên Con đường Phật quả
Pháp thân

Thành tựu giác ngộ ngay trong đời nhờ những Yoga này ,
Hành giả bậc trung hoàn thành giác ngộ trong trung ấm .
Như cá trong nước ,
Họ làm những chuyển hóa thuộc Báo thân .
Năm điệu múa , năm ánh sáng , ba độc ;
Những nghiệp lực , Ưa thích và ghét ;
Khi đi đến tái sinh
Họ áp dụng năm sự hòa lẫn và nhận lấy tất cả .





Bản Chép Tay
Con đường Thậm Thâm
Sáu Yoga Của Naropa :

Nguồn Tài
Liệu Của Mọi Chứng Ngộ

TT. Thabs lam na ro’i chos drug gi lag rjes
dnagos grub kun byung .

bởi

Gyalwa Wensapa Lobzang Dondrup

1505-1566

Kính lễ Guru Vajradhara ,
cùng với vô số bổn tôn Mandala .

Để đi vào thực hành Sáu Yoga của Naropa người ta phải hiểu ba chủ đề :

1-
Thực tại của nền tảng .

2-
Những giai đoạn đi trên con đường .

3-
Cách thức biểu lộ những kết quả .

Thực Tại của Nền Tảng
Thực tại của nền tảng của kinh nghiệm chúng ta gồm ba chủ đề : Thực tại của thân ; thực tại của tâm ;và thực tại của thân và tâm .
Thực tại của Thân
Thực tại của thân có ba :

1-
Thân thô :
Thân bình thường làm bằng thịt , máu , xương ;
Và được sinh từ tinh trùng và trứng của cha mẹ .

2-
Thân tế :
Ám chỉ những kinh mạch chứa năng lực ,
Những năng lực trôi chuyển ,
Và những hạt có năng lực sáng tạo đỏ và trắng .

3-
Thân rất vi tế là :
Năng lực vi tế nâng đỡ thức của bốn cái không ;
Đặc biệt là cái không thứ tư được gọi là:
“ Cái không rốt ráo ” ,
Nó chính là tâm tịnh quang .

Thực tại của Tâm

Thực tại của tâm ;
Cũng có ba chiều kích như vậy :

1-
Tâm thô :
Tâm đồng khởi với năm thức giác quan .

2-
Tâm tế :
Tâm đồng khởi với sức mạnh điều khiển của sáu méo mó gốc ,
Hai mươi méo mó phụ và tám mươi khởi tâm ý niệm .

3-
Tâm rất vi tế :
Chiều kích của thức cùng một bản chất với bốn cái không ;
Đặc biệt cái thứ tư :
“ Cái không rốt ráo ” ;
Nó là tâm tịnh quang .

Thực tại của Thân và Tâm .

Khi chúng sinh gặp gỡ cái chết ,
Những phương diện rất vi tế ;
Của những năng lực sinh khí và thức trở thành một thực thể .
Thực thể này là thực tại chung của cả thân và tâm .

Những Giai Đoạn
Trên Con Đường

Những giai đoạn đi trên con đường gồm hai loại kỹ thuật chính :
Những kỹ thuật rút năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương ;
Và những kỹ thuật được áp dụng sau khi những năng lực đã được rút vào .

Kỹ Thuật Rút Năng Lực Sinh Khí
Vào Kinh Mạch Trung ương
Kỹ thuật để rút những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương . Khởi đầu bằng sự phát sinh hình ảnh chính mình như Phật Vajradhara ; và hình dung những kinh mạch năng lực cùng với những chữ ( âm ) thuộc Mật chú ở những luân xa . Sau đó thiền định về nội nhiệt và về những hạt tan chảy ; làm năng lực sinh khí đi vào , trụ lại và hòa tan .
Dấu hiệu chỉ sự đi vào của những năng lực sinh khí là : Khi hơi thở hít vào để trắc nghiệm sự tiến bộ . Không khí đi qua cả hai mũi một cách êm nhẹ và trơn tru . Dấu hiệu chỉ định hững năng lực được ở lại là : Những thị kiến về sự hòa tan cơ bản và về sự hòa tan ba trạng thái thị kiến . Những hòa tan này được nhận biết một cách cá nhân .
1-
Đất hòa tan vào nước và có thị kiến như ảo ảnh .

2-
Nước tan vào lửa và có thị kiến như khói .

3-
Lửa tan vào không khí và có thị kiến như đom đóm lập lòe .

4-
Không khí tan vào thức được gọi là “ Xuất hiện ” ;
Và có một thị kiến như ánh sáng mờ của ngọn đèn sáp .

5-
Không khí hòa tan hoàn toàn vào “ Xuất hiện ” ;
Và có thị kiến màu trắng như ánh trăng tròn mùa thu trong bầu trời .
Khi “ Xuất hiện ” tan vào thức gọi là “ Tăng trưởng ” ;
Và có thị kiến màu đỏ như ánh mặt trời trong bầu trời .

6-
Khi “ Tăng trưởng ” tan vào “ Đạt đến ” ;
sẽ có thị kiến bóng tối như bầu trời trước bình minh ,
Không mặt trăng mặt trời .
Khi “ Đạt đến ” tan vào “ Tịnh quang ” ;
Sẽ có thị kiến rạng rỡ trong sáng như bầu trời lúc rạng đông ;
Thoát khỏi ba hoàn cảnh .

Hành giả phải nhận biết những kinh nghiệm này xảy ra ,
Đây là tiến trình được biết như sự :
“ Hòa nhập vào Pháp thân trong trạng thái thức ” .
Khi đến lúc xuất khởi khỏi tịnh quang . Hành giả sẽ phát khởi bản năng kết hợp bản năng của những hợp uẩn cũ và kết hợp với hình tướng của Phật Vajradhara . Khi từ tịnh quang phát khởi sẽ cưỡi lên năng lực sinh khí của năm ánh sáng chiếu diệu như nguyên nhân chất thể ; đồng thời tâm dùng như điều kiện hiện diện .
Căn cứ vào những điều này , những uẩn cũ được bỏ qua và hành giả sinh khởi như sự kết hợp với hình tướng Phật Vajradhara . Hình tướng này được trang hoàng bằng những tướng chính và phụ . Đây là giai đoạn “ Thân huyễn chưa thanh tịnh ”. Đồng thời hành giả kinh nghiệm tiến trình hòa tan ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt.. . . Cho đến dấu hiệu ảo ảnh .
Trong những hệ thống tantra như Guhyasamaja thân huyễn ; được minh họa và giải thích bằng cách mười hai cái tương tự. (1) . Vào lúc ấy ba yếu tố đồng thời xảy ra :
1-
Sự dừng dứt tương tự với bổn nguyên ;
( Thức tịnh quang “tương tự” hay “ ẩn dụ ” ) .

2-
Sự viên mãn gần đạt trong tiến trình hòa tan .

3-
Sự khởi lên trong hình tướng thực sự của ;
“ Thân huyễn chưa thanh tịnh ” .

Bấy giờ người với thân huyễn chú tâm vào những giai đoạn định .

Đi vào những giai đoạn của định
như thế nào ?
Trước hết hành giả thiền định về những “ pha ” của tiến trình hòa tan . Khiến những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương tụ lại và hòa tan . Làm khởi lên những dấu hiệu của các định từ ảo ảnh đến tịnh quang . Đến lúc khởi lên khỏi tịnh quang sẽ phát sinh quyết tâm thân huyễn chưa thanh tịnh được chuyển hóa thành thân huyễn thanh tịnh . Bấy giờ khi sinh khởi từ tịnh quang và hình ảnh của thân huyễn thanh tịnh sinh khởi trong tâm .
Đồng thời hành giả kinh nghiệm tiến trình hòa tan theo chiều ngược lại . Đi từ tịnh quang đến gần đạt . . . Cho đến dấu hiệu ảo ảnh . Người đi vào hình tướng Báo thân này sẽ sinh khởi như Hóa thân lưu xuất ra những Madala được duy trì và duy trì . Khi muốn sinh khởi từ thiền định . Hành giả thiền định về những uẩn cũ như Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim .
Trong bình chứa ( Pháp khí ) sẽ chỉ dạy Pháp cho những người thực hành và trau dồi những hoạt động sau thực hành bao gồm những sinh hoạt như : Ăn , uống . . . Hành giả trong giai đoạn thân huyễn trau dồi những thiền định cao cấp . Sau cùng thấy những dấu hiệu về sự thành tựu giai đoạn gọi là : “ Đại hợp nhất của sự thực hành ” đến gần .
Sau đó đi vào điều kiện bên ngoài và điều kiện bên trong . Đó là những thiền định về những giai đoạn hòa tan . . . Cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương tụ lại và hòa tan . Những dấu hiệu của những hòa tan xảy ra từ ảo ảnh đến tịnh quang . Bốn cái không sinh khởi trong bản chất bốn lạc . Vào khoảnh khắc của tịnh quang bổn nguyên . Hành giả đi vào thiền định về : “ Lạc hòa hợp với tánh không ” .
Vào lúc đó năm yếu tố xảy ra đồng thời :

1-
Trạng thái “ Gần đạt đến trong tiến trình hiển lộ ” tự ngừng dứt .

2-
“ Lạc bổn nguyên ” ;
Khơi dẫn sự chứng ngộ trực tiếp chưa từng có về tánh không .

3-
Thân huyễn được tịnh hóa trong tịnh quang thực sự ;
V à xuất hiện như cầu vồng rực rở trong bầu trời .

4-
Hoàn thành giai đoạn không ngăn ngại ;
Đối trị trực tiếp với những che chướng xúc cảm
( Phiền não chướng )
sinh ra trong dòng tâm .

5-
Dòng tương tục của hành giả ;
Trở thành dòng tương tục của vị thánh .
Lúc bắt đầu tiến trình khởi lên khỏi tịnh quang . Sức mạnh hướng dẫn trước kia trong thực hành sẽ vào cuộc . Từ đó đặt hành giả vào cánh cửa thân huyễn thanh tịnh có thể được hoàn thành . Khi khởi lên từ tịnh quang , vai trò nguyên nhân chất thể vào cuộc . Vì năng lực vi tế của năm ánh sáng chiếu diệu . Thế là , thức tịnh quang bổn nguyên thực sự cưỡi lên . Và vai trò của điều kiện hiện diện đồng thời được vào cuộc bởi tâm . Và hành giả khởi lên “ Thân huyễn thanh tịnh ” thực sự . Thân huyễn là dòng không dứt đoạn kết hợp với hình tướng của Phật Vajradhara . Đuợc trang hoàng bởi những tướng chính và phụ và những uẩn cũ đã để lại phía sau .
Đồng thời biểu lộ những dấu hiệu của tiến trình hòa tan ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt cho đến dấu hiệu ảo ảnh . Vào lúc đó năm yếu tố cùng xảy ra : “ Thức tịnh quang bổn nguyên ” tự ngừng dứt . Trạng thái “ Gần đạt ” trong tiến trình hòa tan sinh ra sự khởi lên của “ Thân huyễn thanh tịnh ” . Hành giả hoàn thành con đường giải thoát rốt ráo thoát khỏi những che chướng xúc cảm . Dòng tương tục của họ trở thành dòng tương tục của một A La Hán .
Con người của hình tướng Báo thân bấy giờ chú tâm vào định . Và cái gì là những giai đoạn của định ? . Hành giả tập trung và chú ý vào thiền định nhất tâm về tánh không . Khiến những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương “ Tụ lại ” và “ Hòa tan ” ; làm khởi lên những dấu hiệu đến khi tịnh quang xảy ra . Vào lúc đó hành giả đạt đến trạng thái các đại hợp nhất ; và hoàn thành không trở ngại . Nơi thân và tâm có thể hòa hợp thành một thực thể duy nhất . Thân là thân huyễn thanh tịnh trang hoàng bởi những tướng chính và phụ và tâm là thức tịnh quang thực sự .
Khi đến lúc sinh khởi từ kinh nghiệm tịnh quang . Sức mạnh hướng dẫn từ thực hành vào cuộc và hành giả thấy mình ở cánh cửa thân “ Đại hợp nhất trong thực hành ” . Có thể trở thành thân “ Đại hợp nhất vượt khỏi thực hành ” . Hành giả khởi lên từ tịnh quang . Nơi giai đoạn “ Đại hợp nhất của thực hành ” tri giác . Hình ảnh thân thể trong giai đoạn “ Đại hợp nhất vượt khỏi thành hành ” . Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình ngược lại xảy ra từ “ Tịnh quang ” đến “ Gần đạt ” . . . cho đến ảo ảnh .
Báo thân ấy nắm giữ tiềm năng của Hóa thân và Hóa thân lưu xuất mạng hoạt động ; như biểu lộ những Mandala được duy trì và mãi duy trì . Khi muốn sinh khởi khỏi thiền định . Hành giả đi vào những hợp uẩn cũ hay những hợp uẩn cũ khác tùy theo những gì thích hợp . Sau đó ở trong bình chứa , hành giả chỉ dạy Pháp cho những người thực hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành . . .
Cách Biểu Lộ Những Kết Quả
Thiền giả ở giai đoạn đại hợp nhất của thực hành . Trau dồi những định của cấp độ trong lúc thiền định chính thức và sau thiền định . Sau cùng nhận thấy những dấu hiệu tiếp cận với chứng đắc “ Đại hợp nhất vượt khỏi thực hành ” . Hành giả có điều kiện bên ngoài là quán tưởng Karmamudra và sự điều kiện bên trong là thiền định nhất tâm về tánh không . Làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương , trụ lại và hòa tan . Những dấu hiệu xảy ra bắt đầu bằng ảo ảnh . . . Cuối cùng những dấu hiệu của tịnh quang biểu lộ . Bốn cái không sẽ sinh khởi trong bản chất bốn lạc . Khi giây phút tịnh quang bổn nguyên biểu lộ . Thiền giả đi vào thiền định về “ Lạc ” hòa hợp với trí huệ tánh không .
Khoảnh khắc thứ nhất :

Giai đoạn không ngăn ngại trong đó những chướng ngại ;
Tri giác ( Sở tri chướng ) được vượt qua .

Khoảnh khắc thứ hai là:

Khoảnh khắc đầu tiên của Phật quả toàn giác ,
Trong đó thiền định an trụ trong định toàn hảo ;
Về bản tánh tối hậu của tất cả hiện hữu .
Cùng lúc nhận thấy trực tiếp mọi thực tại quy ước ;
Rõ ràng như trái cây nằm trong lòng bàn tay .
Thân của đại hợp nhất của thự hành trở thành đại hợp nhất vượt khỏi thực hành . Báo thân thực sự phát ra hàng ngàn . Hóa thân lưu xuất để làm lợi lạc cho những ai thực hành . Như vậy hành giả hoàn thành Phật quả trọn vẹn trong bản tánh của ba thân .
Sơ bộ để đạt đến giai đoạn đại hợp nhất vượt khỏi thực hành . Hành giả cần phải đi qua giai đoạn đại hợp nhất của thực hành . Sơ bộ cho những điều này hành giả phải hoàn thành thân huyễn . Muốn hoàn thành như thề . Hành giả trước hết thiền định về những kinh mạch , luân xa , nội nhiệt , tan chảy . . .
Lần lượt , sơ bộ cho những thực hành của giai đoạn thành tựu này . Hành giả phải kết thúc của những thực hành giai đoạn phát sinh thô và tế . Nhận lấy sinh , chết và trung ấm làm căn cứ tịnh hóa như con đường của ba thân . Để được thế , phải nhận quán đảnh trọn bộ và trưởng thành , chín chắn trong việc tuân thủ những giới luật được trao vào lúc quán đảnh.
Hơn nữa , trước khi vào thực hành Mật thừa , hành giả cần thực hành tâm thức trong con đường chung . Từ trau dồi một tương quan làm việc hiệu quả với vị thầy tâm linh ; cho đến thực hành thiền định phối hợp Samatha ( Chỉ ) và Vipassyana ( Quán ) . Như thế , hành giả như viên ngọc quý đi vào con đường sâu xa của Sáu Yoga của Naropa trọn vẹn và không lỗi lầm cho sự thành tựu giác ngộ trong một đời ngắn ngủi Cho dù ngay trong thời đại suy đồi này .
Lời kết :

Những ghi chú về dòng những giáo lý của
Vajradhara Lobzang Dondrup ,
Không có gì vượt quá và không có gì bỏ sót ;
Được sao chép và ấn hành bởi :
Nhà sư Phật giáo Basowa Tenpai Gyaltsen
( Đệ tử của ngài Lobzang Dondrup )

http://www.herbalworldcenter.com/tantra/sau-phap-du-da-cua-naropa.htm
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa   Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Sáu Pháp Du-Dà (Yogas) Của Naropa
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» ÔNG PHẠM BÁ NÓI NHỮNG TIÊU CỰC VỀ ĐẠO XUẤT HỒN Tức pháp lý vô vi khoa học huyền bí Phật pháp
» Chánh Pháp và Tà Pháp - Bùa Ngải, Thần Quyền
» GIÁO PHÁP THỜI LUÂN, GIÁO PHÁP TƯƠNG TỤC VÀ SỰ LIÊN HỆ VỚI HÒA BÌNH THẾ GIỚI
» SÁU YOGA CỦA NAROPA
» “NHÃN PHÁP” và “TÂM PHÁP” tức “TÂM ẤN”

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ KHÍ CÔNG ĐÔNG PHƯƠNG :: KHÍ CÔNG MẬT TÔNG :: BÀI VỞ VỀ TINH HOA KHÍ CÔNG MẬT TÔNG .-
Chuyển đến