Người có thể dẩy lên yếu tố thanh tịnh của hạt ( Tig-le ) theo kinh mạch trung ương , làm phát khởi “ Bốn Lạc trong tiến trình đi Lên ” . Ổn định hạt trong trung tâm đầu . Lần lượt những nút thắt làm vướng mắc kinh mạch trung ương tự khai mở . Quét sạch mọi kết bế trong sáu luân xa và tuần tự loại bỏ hai mươi mốt ngàn sáu trăm khí thuộc nghiệp là ; Đạt đến giai đoạn thứ ba và thứ tư - gồm những Giai đoạn Giác Ngộ Ban đầu và Giác Ngộ Sâu Hơn từ địa thứ nhất đến địa thứ mười hai .
4-
Người có thể tịnh hóa những khí , kinh mạch và hạt vi tế nhất . Chuyển hóa thân vật chất thành thân Cầu Vồng . Tịnh hóa ba mươi hai kinh mạch và tám mươi tư tưởng phân biệt . Như thế có thể làm hiển lộ ba mươi hai tướng chánh và tám mươi tướng phụ của Thân Phật được gọi là : Đạt đến Phật quả hoàn toàn của địa thứ mười ba của Vajradhara . Vì Tâm-Khí của họ là Tâm-Khí của Trí Huệ . Vì âm A và âm Ham (24) hợp nhất trọn vẹn . Có nghĩa đạt được Báo thân tối hậu Hai trong Một của Phật quả .
Sự không phân biệt của lòng Bi và tánh Không từ họ được gọi là Pháp thân . Đại Lạc và Vinh Quang vô biên từ họ được gọi là Báo thân . Vô số sắc tướng và phô diễn sinh ra cho lợi lạc của chúng sinh từ họ được gọi là Hóa thân. . Nhất thể của ba thân này được gọi là Pháp Giới thân hay Kim cang thâ n ( Toàn Thể tánh ) . Với Bốn Thân này họ sẽ chuyển Bánh Xe Pháp để giải thoát cho tất cả chúng sinh đến khi sinh tử chấm dứt . . .
Chú Thích
1-Gampopa : Đệ tử chính của Milerepa . Là Đại học giả và thiền giả vào thế kỷ 12 đã truyền rộng phái Kagyu ở Tây Tạng .
2-Hai Yoga : trong Tantra Anuttara ( vô thượng) có hai thực hành chính : một là Yoga giai đoạn Phát Sinh , hai là Yoga giai đoạn Thành Tựu . Yoga Phát Sinh là sự chuẩn bị cho cái sau . Nhấn mạnh vào những thực hành an định và quán chiếu . Những nét chính của nó gồm những bước sau :
1-
Quán tưởng mọi sự vật và tự thân tan vào đại Không .
2-
Quán tưởng trong Không một chủng tử tự ( Bija ) ;
tự chuyển hóa thành hình ảnh của Phật Bổn Tôn .
3-
Mô phỏng toàn thân Thân Phật Bổn Tôn gồm :
Ba Kinh Mạch Chính và Bốn Luân Xa.
4-
Mô phỏng Mandala và đồng hóa mọi biểu lộ với Phật tánh .
5-
Trì tụng Mật chú của Phật Bổn Tôn ;
Và áp dụng mô phỏng đặc biệt cho mục tiêu yoga đặc biệt .
6-
Mô phỏng mọi vật gồm cả Thân Phật Bổn Tôn
tan vào trong chủng tử tự trong Luân Xa Trái Tim ‘
Và chủng tử tự này lại hòa tan vào Không đại .
7-
Từ cái Không phóng ra Phật Bổn Tôn và Mandala .
Yoga này nhấn mạnh những quán tưởng và tu hành tâm linh căn cứ vào yoga đặt nền móng cho thực hành Yoga Thành Tựu . Nhưng vì điều này được làm với nỗ lực ý thức với “ tâm thế gian ” , nên không thể được xem là siêu vượt thế gian trong bản chất và chỉ được coi là thực hành sơ bộ cho những yoga cao hơn .
Yoga Thành Tựu là Yoga Mật thừa cao cấ . Mục tiêu chính yếu là khí ( prana ) thuộc nghiệp vào Kinh Mạch Trung ương và chuyển hóa chúng thành ánh Sáng-Trí Huệ và chứng ngộ Pháp thân . Từ Pháp thân, thiền giả được chỉ dạy phát khởi Báo thân và những Hóa thân . Trong nhóm Yoga Thành Tựu , Yoga Nội Nhiệt và Yoga Thân Huyễn là hai cái căn bản , còn những Yoga ánh Sáng, Giấc Mộng , Trung ấm và Chuyển Di chỉ phụ trợ .
a-
Xuất Hiện, Tăng Trưởng, và đạt đến là :
Ba giai đoạn trong đó Ba Cái Không tuần tự khởi hiện và tám mươi phân biệt và phiền não tuần tự chìm lặng trong tiến trình “ Hòa Tan của Tâm-Khí ” . Điều này có thể xảy ra trước giấc ngủ , vào lúc chết và khi khí đi vào kinh mạch trung ương .
b.
Demchog
( TT. bDem-mChog, Skt. Samvara ) :
Bổn tôn quan trọng của Tantra Mẹ.
c.
“ Chỗ mở ” trên đỉnh đầu .
Đây là cửa ra duy nhất cho thức con người có thể bỏ thân và sinh về cõi Phật thanh tịnh ( Skt. Brahmarandhara ) .
d..
Ba Kinh Mạch :
Trung ương , Phải và Trái là ba kinh mạch ( Nadi ) trong thân thể . Cả ba đều ở phần giữa của thân , chạy song song nhau dọc theo xương sống . Kinh Mạch Phải ( TT.Ro Ma ) được xem là thuộc về hệ mặt trời . Kinh Mạch Trái ( TT. Rkyan.Ma ) thuộc về hệ mặt trăng và Kinh Mạch Trung ương thuộc về sự hợp nhất của mặt trời và mặt trăng . Kinh mạch phải và trái được xem là những cái thuộc sinh tử và trung ương là kinh mạch dẫn đến niết bàn . Mô phỏng rõ ràng ba kinh mạch này là điều kiện tiên quyết cho thực hành Sáu Yoga .
e.
Bốn Luân Xa ( Skt. Cakra ) hay bốn Trung Tâm :
Đầu , cổ họng , ngực và rốn . Nối với Kinh Mạch Trung ương . Luân Xa đầu là : Trung Tâm Đại Lạc ; Luân Xa Cổ Họng : Trung Tâm Vui Thích . Luân Xa Tim : Trung Tâm của Pháp ; và Luân Xa Rốn : Trung Tâm Chuyển Hóa .
f.
Hạt (TT.Tigle, Skt. Bindu) là :
“ Điểm ” hay “ hạt ” thường được dùng trong những bản văn Mật thừa có nghĩa : “ Tinh chất ” của năng lực sinh khí . Hạt ( Tigle ) tương đương với Bồ đề tâm khi Bồ đề tâm được dùng theo nghĩa Mật thừa .
g.
Dùng ngón tay bít lỗ mũi trái và thở qua lỗ mũi phải . Và ngược tiến trình này , thở vào qua lỗ mũi trái : sẽ sớm nhận ra rằng một lỗ mũi cho không khí vào nhiều hơn lỗ mũi kia . Theo sinh lý học Mật thừa , có sáu thời kỳ trong hai mươi bốn giờ hai lỗ mũi thở bằng nhau . Do những thay đổi về khí ở Luân Xa Rốn .
Phán đoán căn cứ vào thời gian và sức mạnh của hơi thở qua hai lỗ mũi , thiền giả có thể tiên đoán nhiều biến cố quan trọng ảnh hưởng đến mình và thế giới . Nghệ thuật này được nói chi tiết trong cuốn sách của Karmapa Rangjung Dorje . Nghĩa Bên Trong Sâu Xa và nhiều sách khác .
h.
Chủng tử tự ( Bija ) :
Tinh túy hay những biểu tượng chính của một bổn tôn hay của một luân xa , một đại lạc . Người ta tin rằng làm việc với một chủng tử tự có thể đánh thức hay làm chủ một đại mà nó đại diện.
i.
Hơi thở Bình Luôn Luôn Vững Bền :
Một loại thở nhẹ và êm . Đặc điểm chính của nó là đặt áp lực thường trực và nhẹ nhàng ở phần bụng dưới .
j.
Bốn Trí Huệ-Lạc hay Bốn Trí Huệ Không-Lạc :
Theo đại thừa trí huệ về tánh Không thường được nhấn mạnh . Nhưng Trí Huệ Không-Lạc đặc trưng của Mật thừa là sự hợp nhất giữa tánh Không và Lạc .
k.
Đây là “ Hai mươi bốn chỗ tụ hội ” :
của những Dakini và thiền giả Mật thừa ở Ân độ .
l.
Yidam :
Phật Bổn Tôn do Thầy lựa chọn trong khi quán đảnh . Hành giả cần cầu nguyện và nương dựa vào vị ấy . Trong Yoga Phát sinh , thiền giả quán tưởng thân vật chất trở thành thân Phật Bổn Tôn . Thật ra ngài là sự nương dựa của thiền giả trong mọi thực hành .
Dakini :
Những “ Người nữ du hành trên không ” . Cũng là những nữ thần đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong Mật thừa .
Hộ pháp :
Những vị thần hoặc các vị trời bảo vệ và phục vụ cho thiền giả .
m.
Tám Sở đắc Thế Gian hay Tám Ngọn Gió Thế Gian :
Được , mất , khen , chê , vinh , nhục , vui , buồn .
n.
Yum :
Phật Mẫu.
o.
Thần chú Vajrasattva :
Thần chú nổi tiếng và quan trọng gồm một trăm âm . Dùng để tịnh hóa tội lỗi và trừ bỏ những cản trở tâm linh . Hầu hết các Lama đều trì tụng chú này vào mỗi ngày .
p.
Nếu không có vị thầy , thiền giả có thể cầu nguyện trực tiếp với Phật và nhận quán đảnh từ Phật nhờ quán tưởng và cầu nguyện .
q.
Nếu thiền giả Mật thừa tiếp xúc với người và những sự vật phi pháp . Hay đến những chỗ dơ nhiễm , người ấy có nguy cơ bị ô uế làm cho sự tiến bộ bị trở ngại .
r.
Bốn Cái Không của Giấc Ngủ :
Bốn sự biểu lộ lần lượt của cái Không xảy ra ngay trước hay sau giấc ngủ . Đó là : Không Ban đầu , Không Cùng Cực , Không Tối thượng , và Không Bổn Nguyên . Sự khác biệt của bốn cái Không ở chỗ mức độ sự sáng tỏ và triệt suốt .
s.
Khi chữ Hum tan , điểm chấm nhỏ sau cùng có thể thấy được gọi là Nada . . . Cũng có nói rằng : Nada là âm thanh huyền bí tự sinh không do đụng chạm giữa hai vật .
t.
Sắc thân (Rupakaya) :
Gồm Báo thân và Hóa thân của Phật quả .
u.
Yếu tố đại Viên Cảnh Trí ;
Ba mươi ba tư tưởng phân biệt của sân :
Vì thiếu sách Tây Tạng để quy chiếu , dịch giả ( Garma C.C. Chang ) không thể kể ra .
Với độc giả tiếng Việt , có thể tham khảo thêm Cái Chết Trong Phật Giáo Tây Tạng - Trí Huệ và đại Bi, đức Dalai Lama thứ 14, NXB. Thiện Tri Thức, 1998 (nhất là ở trang 232) và Tử thư Tây Tạng , Chogyam Trungpa , NXB . Thiện Tri Thức, 2000 .
3-
A :
A là chủng tử tự của Trung Tâm Rốn . Tượng trưng yếu tố dương ;
Ham là chủng tử tự của Trung Tâm đầu , tượng trưng yếu tố âm .
Hai cái này cũng còn gọi là Hạt Tigle hay Bồ đề Tâm, đỏ và trắng .
Cuốn “ Sáu Yoga của Naropa ” do Garma C.C.Chang đến đây là chấm dứt . Các dịch giả thêm vào ba bản văn trích từ quy ển Readings on Six Yogas of Naropa do Glenn H. Mullin dịch từ tiếng Tây Tạng ( Snow Lion Publications, 1997 ) để độc giả có thêm tài liệu nghiên cứu .
Phần III
Những Bản Văn Về Sáu Yoga
Của Naropa
Giáo Huấn Khẩu Truyền
Về Sáu Yoga
Đại Thành Tựu giả Ấn độ
Tilopa
Kính lễ Chakrasamvara Vinh Quang.
Hãy tận dụng nhân quả nghiệp báo ;
Chiết suất đưọc tinh túy tiềm năng làm người .
Yoga Nội Nhiệt
Thân thiền giả ,
Chứa đựng một nhóm những kinh mạch năng lực Thô và tế .
Có những trường năng lượng ,
Nên đưa chúng vào sự kiểm soát để sử dụng .
Phương pháp bắt đầu với những thực tập thân thể ,
Những sinh khí được hút vào để ,
Làm đầy, giữ lại và hòa tan .
Hai kinh mạch hai bên ,
Và kinh mạch trung ương avadhuti ;
Với bốn luân xa ( Chakra ) .
Những ngọn lửa khởi từ nội nhiệt Tumo (1) ở rún .
Dòng suối cam lồ tự giọt xuống ;
Từ chữ “ Ham ” ở đỉnh đầu .
Khơi dẫn bốn “ Lạc ” ,
Có bốn kết quả như quả tương tự với nhân .
Và sáu thực tập làm tăng trưởng ,
Đây là giáo huấn của Charyapa .
Yoga Thân Huyễn
Mọi vật sống động và vô tri trong ba cõi
Đều như những thí dụ về ảo ảnh , giấc mộng . . .
Hãy thấy điều này trong mọi lúc ,
Ngay cả khi chuyển động và yên lặng .
Hãy quan sát Bổn tôn như :
Ảo ảnh phản chiếu trong tấm gương .
Hãy lấy hình vẽ Vajrasattva và xem xét ;
Hình ảnh phản chiếu xuất hiện sống động như thế nào .
Như hình tướng ấy là hình tướng của ảo ảnh ,
Với tất cả mọi sự vật cũng thế .
Như vậy thiền giả quán sát mười hai sự so sánh ,
Và thấy sự thật của mọi sự chỉ là ảo ảnh như thế nào
Đây là giáo huấn của Nagarjuna ( Long Thọ ) .
Hãy biết những giấc mộng chỉ là những giấc mộng ,
Và thường trực thiền định về ý nghĩa sâu xa của chúng .
Hãy quán tưởng những chủng tử tự của năm đạ ,
Với “ hạt , nada và . . . ” .
Người ta tri giác chư Phật và những cõi Phật ,
Thời gian ngủ là thời giandành cho phương pháp ,
Đem đến sự thực hiện “ Đại lạc ” ,
Đây là giáo huấn của Lawapa .
Yoga Tịnh Quang
Thiền giả làm việc với kinh mạch trung ương ,
Để hết tâm vào kinh mạch trung ương ;
Và tập trung vào “ hạt ở trái tim ” .
Những thị kiến sinh khởi như :
Những ánh sáng , tia sáng , cầu vồng .
Ánh sáng mặt trời và ánh sáng mặt trăng vừa mọc .
Mặt trời , mặt trăng và những hình tướng xuất hiện ;
Của những Bổn tôn và hình sắc ,
Trong cách này vô số thế giới được tịnh hóa .
Con đường Yoga kỳ diệu nhất này ,
Là giáo huấn của Nagarjuna .
Yoga Trung ấm
Thiền giả vào lúc chết rút hết những năng lực ;
Của những giác quan và những nguyên tố .
Hướng năng lực của mặt trời và mặt trăng đến trái tim ,
Làm khởi lên vô số Samadhi (Đại định ) .
Thức thường tham dự với những đối tượng bên ngoài ,
Nhưng chỉ nhìn chúng như những vật trong giấc mộng .
Những hình tướng xuất hiện của cái chết kéo dài bảy ngày ,
Hay nhiều nhất là bảy lần bảy và rồi phải nhận tái sinh .
Vào lúc đó hãy thiền định Yoga Bổn tôn ,
Hay chỉ đơn giản an trụ trong tánh không .
Sau đó khi thời gian tái sinh đến ,
Dùng Yoga Bổn tôn của vị thầy Mật thừa .
Thiền định về Guru Yoga với bất cứ cái gì xuất hiện ;
Làm như vậy sẽ khiến kinh nghiệm trung ấm dừng lại ,
Đây là giáo huấn của Sukhasiddhi .
Những Yoga Chuyển Di
&
Phóng Xuất
Nhờ những Yoga vào thời gian chuyển di ,
Phóng xuất mạnh mẽ vào thân khác .
Thiền giả có thể sử dụng chủng tử tự của Bổn tôn
Và thực hành yoga bổn tôn ;
Phối hợp với hơi thở ra và vào dài và ngắn ,
Để phóng xuất thức đến bất kỳ nơi đâu mình muốn .
Những người muốn chuyển di đến một cõi cao ,
Có thể chuyên tâm vào hai chữ “ Yam ” ;
Cũng như “ Hi-Ka và Hum-Hum ”.
Thức được phóng đến ;
Trái ti vủa bổn tôn không tách lìa khỏi Guru .
Từ đó đến bất cứ cõi Phật nào mong muốn ,
Đây cũng là giáo huấn của Sukhasiddhi .
Lời kết :
Viết ra từ lời dịch của Đại thành tựu giả Tilopa ,
Được dịch bởi Pandit trí giả Ân độ Naropa ;
Và Marpa Lodrakpa Chokyi Lotru ,
Ở thánh địa Kash-miri tức núi Pushpahara .
Những Câu Kệ Kim Cương
Của Truyền Thống
Thầm Thì Bên Tai
Đại Thành Tựu giả Ấn độ
Naropa
Kính lễ Phật Vajradhara siêu việt và viên thành.
Eh-ma-hoh ! ;
Giáo lý toàn hảo tối thượng của tất cả chư Phật .
Con đường tối thượng của trí huệ chiến thắng ,
Là thực tại vượt ngoài ngôn ngữ .
Nhưng một lần tôi nghe ;
Những lời của con đường vĩ đại vô sinh :
“ Ta , Vajradhara sẽ nói về nghĩa tốt lành ấy ;
Hãy kính lễ ,
Hỡi Jnana Dakini và lắng nghe ” .
Tư Cách của Vị Thầy và Học Trò
Vị thầy cao cả là :
Người đã uống say kinh nghiệm của Giới , Định và Huệ.
Học trò đủ tư cách là người có đầy đủ :
Tin tưởng , nghị lực , thông minh và lòng bi .
Thường nhớ nghĩ về những bất toàn của cuộc đời thế tục ;
Và đã vượt khỏi mọi lưu tâm đến thế gian .
Quán Đảnh Nhập Môn Và Những Yoga
Giai Của Goạn Phát Sinh
Lúc bắt đầu cần nương dựa vào ;
Truyền thống Mật thừa Chakrasamvara .
Bằng cách có bốn quán đảnh để vào ;
Mandala của sáu mươi hai vị thần bổn tôn .
Có lẽ cũng nên nhận bốn quán đảnh của mười lăm Dakini ,
Hãy làm trưởng thành tâm theo cách này .
Và thực hành trí huệ và phương tiện phối hợp.
Hãy nỗ lực hành bảy Yoga chẳng hạn :
Giống như vua và tể tướng .
Và hòa hợp tất cả thành một vị ,
Hãy chuyên tâm dựa vào giới luật Samaya .
Yoga Nội Nhiệt
Cột trụ của con đường là :
Sự tự cháy bừng nội nhiệt phúc lạc .
Với tư thế thân theo bảy điểm ;
Hãy thiền định về hình tướng Bổn tôn .
Với thân thể như một chiếc vỏ rỗng .
Hãy hình dung kinh mạch trung ương Avadhuti ,
Những kinh mạch hai bên Lalana và Rasana .
Và bốn luân xa ;
Với hình tướng của âm “ Ah và Ham” .
Sự bừng cháy và nhỏ giọt ,
Và sự đi vào kinh mạch trung ương ;
Làm cho những năng lực sinh khí đi xuống .
Hãy thiền định ;
Và trì tụng Kim Cương với năm năng lực gốc ,
Hãy giữ lại và ổn định những năng lực ;
Và khởi dẫn kinh nghiệm về trí huệ .
Hãy hòa nhập bốn lạc và hòa lẫn ;
Những năng lực gốc ;
Nnhững hạt năng lực và thức ,
Đi vào kinh mạch trung ương .
Tâm vượt khỏi ý niệm sinh khởi ,
Những xúc cảm méo mó sẽ tự-bình lặng .
Thế là ;
Dòng không dứt về lạc phúc và sáng chói bắt đầu tuôn chảy .
Yoga Thân Huyễn
Hãy thấy bản tánh của Pháp thân ;
Và trầm mình vào Pháp thân .
Để tăng cường tỉnh giác này ,
Hãy thiền định về bản chất như huyễn ,
Và tự-giải thoát của tám mối quan tâm thế gian .
Hãy thấy mọi sự trong sinh tử và niết bàn là ảo tưởng ;
Chúng chỉ như huyễn ,
Như mầu sắc cầu vồng và như trăng trong nước .
Những hiện tượng tác động xuất hiện từ tâm ;
Nếu chúng là thật và tĩnh đọng như có vẻ thế ,
Thế thì làm sao sự thay đổi có thể xảy ra ?
Bởi vì chúng là những hình tướng hư vọng ,
Và tận trong bản chất chúng là không thật .
Hãy thấy mọi hình tướng xuất hiện đều trống không,
Như tiếng dội trong hang .
Khi sự bám nắm vào nhị nguyên lắng xuống ,
Chúng ta sẽ thoát khỏi thích và ghét .
Với căn cứ là quán chiếu này ,
Tất cả mọi hành động đều thoát khỏi bám chấp .
Và tiến đến thành tựu thân cầu vồng và Pháp thân .
Yoga Giấc Mộng
Cuối cùng ;
Để chiếu rạng địa thứ mười và hoàn thành mục tiêu vĩ đại .
Nhất là tách lìa tịnh quang khỏi bóng tối vô minh .
Hãy trau dồi những phương pháp Yoga ;
Và đi vào bốn định ( Samadhi ) .
Hãy nhìn !
Hạt thiêng liêng không bị ba độc giam giữ .
Chúng ta giữ gìn khoảng giữa ;
Giấc ngủ và giấc mộng với những ý tưởng,
Hòa nhập bốn giai đoạn ;
Và hòa lẫn sự thực hành ngày và đêm .
Sự trải nghiệm không ngăn ngại ;
Và không thể diễn tả về tịnh quang sinh khởi .
Nó là trí huệ bổn nguyên ;
Thoát khỏi bám nắm vào sáng tỏ và tánh Không .
Và nhìn thấy bản thân Đại ấn .
Yoga Chuyển Di Thức
Phương pháp làm ra vàng của chuyển di thức ,
Nhờ đó Phật quả được thành tựu mà không cần thiền định .
Hãy chờ đợi những dấu hiệu của cái chết xảy ra ,
Và rồi ;
Để tâm trong trạng thái hoan hỷ không bám nắm .
Hãy đóng chín cửa thoát ra ,
Áp dụng những căn bản Mật thừa .
Trang hoàng sự thực hành với những nguyện vọng tâm linh ,
Năng lực và tâm được hòa trộn với “ Hum ” ;
Trong Kinh mạch trung ương .
Thần chú “ Ksha ” sáng chói ( tâm ) được phóng ra khỏi thân ,
Qua con đường của cổng Prama ,
Đuợc phóng đến Pháp thân Guru và đến cõi Phật .
Yoga Trau Dồi Cái Thấy
Để làm bật cháy sự rạng rỡ của trí huệ Đại ấn,
Hãy giữ ba cửa bất động và siết chặt năm giác quan .
Thấy mà không thấy gì ;
Hãy nhìn thẳng vào bản tánh của tâm .
Để tâm vào chánh vị không tạo tác và không một đối tượng .
Không nhìn ra ngoài ,
Hãy chứng ngộ bản tánh của tâm .
Từ nền tảng không tạo tác ;
Sự bắt đầu tự nhiên .
Hãy đặt nó vào ;
Truyền thống vĩ đại của người bình thường .
Không chuyển động ,
Nhận thấy ra bầu trời bao la của Pháp thân bất sinh bất diệt .
Dù nhiều hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài ,
Chúng chỉ là tâm của chính mình và không có sự hiện hữu nào khác,
Nào kể gì những méo mó , ý niệm , và bám nắm nhị nguyên có biểu lộ .
Và hãy nhìn xem !
Những thứ đó tự tan mất theo dòng của chúng.
Tinh túy của tâm là :
Vô sinh , tánh Không , Pháp thân .
Những hiện diện sáng chói không dứt sinh khởi là Hóa thân ;
Đại lạc vô trụ của hợp nhất là Báo thân .
Đây là nghĩa của Đại ấn hay Chak-gya chenpo ,
Chak ám chỉ mọi sự được nhìn với trí huệ bất nhị ;
Gya ám chỉ “ Lạc ” của sự cởi thoát những nút thắt của tâm thái sinh tử .
Và Chenpo có nghĩa là Pháp thân tự-giải thoát ,
Sinh từ ngọn đèn của hợp nhất hoàn hảo không từ cái gì khác .
Hai che chướng là tự-giải thoát ;
Chủ thể và đối tượng không còn phân cực .
Tâm sinh diệt và mọi sự vật trong Sinh tử và Niết bàn tự tan mất. ,
Phạm vi của hiểu biết là tự tròn đầy với mọi đức tính .
Và Chúng ta trở thành một vị Phật tự sinh ,
Vượt khỏi tư tưởng và lời nói .
Những Yoga Trung ấm
Nghĩa sâu xa đi vào trung ấm được phát lộ cắt đứt ba trung ấm :
1-
Trung ấm của sinh đến tử .
2-
Trung ấm của giấc mộng .
3-
Trung ấm của trở thành .
Không cho đó là cho ;
Không thấy đó là cái thấy tối thượng .
Đây là tâm tự-tỉnh giác rỡ ràng trống không ;
Vượi khỏi ý niệm và thoát khỏi mọi che chướng .
Đại lạc , cảnh giới của thực tại , trí huệ thanh tịnh rốt ráo ,
Vốn bất khả phân biểu lộ như ba thân .
Hãy nhìn !
Những người chưa chứng ngộ thực hành với ba trung ấm cần hòa hợp
Những yoga giai đoạn phát sinh , yoga thân huyễn
Yoga tịnh quang và Pháp thân .
Những nguyên tố :
Đất , nước , lửa , không khí tuần tự hòa tan .
Tâm tám mươi ý niệm được dừng lại, và ba thị kiến đi qua.
Yếu tố trắng , đỏ và bản thân tâm gom vào Hoa sen .
Khi điều này xảy ra ,
Hãy nhìn xem khuôn mặt Tâm tịnh quang
Hãy hòa lẫn ;
Hai tịnh quang mẹ và con thành không thể tách lìa .
Những Kết Quả Hành Giả
Thực Hành Tốt nhất Trên Con đường Phật quả
Pháp thân
Thành tựu giác ngộ ngay trong đời nhờ những Yoga này ,
Hành giả bậc trung hoàn thành giác ngộ trong trung ấm .
Như cá trong nước ,
Họ làm những chuyển hóa thuộc Báo thân .
Năm điệu múa , năm ánh sáng , ba độc ;
Những nghiệp lực , Ưa thích và ghét ;
Khi đi đến tái sinh
Họ áp dụng năm sự hòa lẫn và nhận lấy tất cả .
Bản Chép Tay
Con đường Thậm Thâm
Sáu Yoga Của Naropa :
Nguồn Tài
Liệu Của Mọi Chứng Ngộ
TT. Thabs lam na ro’i chos drug gi lag rjes
dnagos grub kun byung .
bởi
Gyalwa Wensapa Lobzang Dondrup
1505-1566
Kính lễ Guru Vajradhara ,
cùng với vô số bổn tôn Mandala .
Để đi vào thực hành Sáu Yoga của Naropa người ta phải hiểu ba chủ đề :
1-
Thực tại của nền tảng .
2-
Những giai đoạn đi trên con đường .
3-
Cách thức biểu lộ những kết quả .
Thực Tại của Nền Tảng
Thực tại của nền tảng của kinh nghiệm chúng ta gồm ba chủ đề : Thực tại của thân ; thực tại của tâm ;và thực tại của thân và tâm .
Thực tại của Thân
Thực tại của thân có ba :
1-
Thân thô :
Thân bình thường làm bằng thịt , máu , xương ;
Và được sinh từ tinh trùng và trứng của cha mẹ .
2-
Thân tế :
Ám chỉ những kinh mạch chứa năng lực ,
Những năng lực trôi chuyển ,
Và những hạt có năng lực sáng tạo đỏ và trắng .
3-
Thân rất vi tế là :
Năng lực vi tế nâng đỡ thức của bốn cái không ;
Đặc biệt là cái không thứ tư được gọi là:
“ Cái không rốt ráo ” ,
Nó chính là tâm tịnh quang .
Thực tại của Tâm
Thực tại của tâm ;
Cũng có ba chiều kích như vậy :
1-
Tâm thô :
Tâm đồng khởi với năm thức giác quan .
2-
Tâm tế :
Tâm đồng khởi với sức mạnh điều khiển của sáu méo mó gốc ,
Hai mươi méo mó phụ và tám mươi khởi tâm ý niệm .
3-
Tâm rất vi tế :
Chiều kích của thức cùng một bản chất với bốn cái không ;
Đặc biệt cái thứ tư :
“ Cái không rốt ráo ” ;
Nó là tâm tịnh quang .
Thực tại của Thân và Tâm .
Khi chúng sinh gặp gỡ cái chết ,
Những phương diện rất vi tế ;
Của những năng lực sinh khí và thức trở thành một thực thể .
Thực thể này là thực tại chung của cả thân và tâm .
Những Giai Đoạn
Trên Con Đường
Những giai đoạn đi trên con đường gồm hai loại kỹ thuật chính :
Những kỹ thuật rút năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương ;
Và những kỹ thuật được áp dụng sau khi những năng lực đã được rút vào .
Kỹ Thuật Rút Năng Lực Sinh Khí
Vào Kinh Mạch Trung ương
Kỹ thuật để rút những năng lực sinh khí vào kinh mạch trung ương . Khởi đầu bằng sự phát sinh hình ảnh chính mình như Phật Vajradhara ; và hình dung những kinh mạch năng lực cùng với những chữ ( âm ) thuộc Mật chú ở những luân xa . Sau đó thiền định về nội nhiệt và về những hạt tan chảy ; làm năng lực sinh khí đi vào , trụ lại và hòa tan .
Dấu hiệu chỉ sự đi vào của những năng lực sinh khí là : Khi hơi thở hít vào để trắc nghiệm sự tiến bộ . Không khí đi qua cả hai mũi một cách êm nhẹ và trơn tru . Dấu hiệu chỉ định hững năng lực được ở lại là : Những thị kiến về sự hòa tan cơ bản và về sự hòa tan ba trạng thái thị kiến . Những hòa tan này được nhận biết một cách cá nhân .
1-
Đất hòa tan vào nước và có thị kiến như ảo ảnh .
2-
Nước tan vào lửa và có thị kiến như khói .
3-
Lửa tan vào không khí và có thị kiến như đom đóm lập lòe .
4-
Không khí tan vào thức được gọi là “ Xuất hiện ” ;
Và có một thị kiến như ánh sáng mờ của ngọn đèn sáp .
5-
Không khí hòa tan hoàn toàn vào “ Xuất hiện ” ;
Và có thị kiến màu trắng như ánh trăng tròn mùa thu trong bầu trời .
Khi “ Xuất hiện ” tan vào thức gọi là “ Tăng trưởng ” ;
Và có thị kiến màu đỏ như ánh mặt trời trong bầu trời .
6-
Khi “ Tăng trưởng ” tan vào “ Đạt đến ” ;
sẽ có thị kiến bóng tối như bầu trời trước bình minh ,
Không mặt trăng mặt trời .
Khi “ Đạt đến ” tan vào “ Tịnh quang ” ;
Sẽ có thị kiến rạng rỡ trong sáng như bầu trời lúc rạng đông ;
Thoát khỏi ba hoàn cảnh .
Hành giả phải nhận biết những kinh nghiệm này xảy ra ,
Đây là tiến trình được biết như sự :
“ Hòa nhập vào Pháp thân trong trạng thái thức ” .
Khi đến lúc xuất khởi khỏi tịnh quang . Hành giả sẽ phát khởi bản năng kết hợp bản năng của những hợp uẩn cũ và kết hợp với hình tướng của Phật Vajradhara . Khi từ tịnh quang phát khởi sẽ cưỡi lên năng lực sinh khí của năm ánh sáng chiếu diệu như nguyên nhân chất thể ; đồng thời tâm dùng như điều kiện hiện diện .
Căn cứ vào những điều này , những uẩn cũ được bỏ qua và hành giả sinh khởi như sự kết hợp với hình tướng Phật Vajradhara . Hình tướng này được trang hoàng bằng những tướng chính và phụ . Đây là giai đoạn “ Thân huyễn chưa thanh tịnh ”. Đồng thời hành giả kinh nghiệm tiến trình hòa tan ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt.. . . Cho đến dấu hiệu ảo ảnh .
Trong những hệ thống tantra như Guhyasamaja thân huyễn ; được minh họa và giải thích bằng cách mười hai cái tương tự. (1) . Vào lúc ấy ba yếu tố đồng thời xảy ra :
1-
Sự dừng dứt tương tự với bổn nguyên ;
( Thức tịnh quang “tương tự” hay “ ẩn dụ ” ) .
2-
Sự viên mãn gần đạt trong tiến trình hòa tan .
3-
Sự khởi lên trong hình tướng thực sự của ;
“ Thân huyễn chưa thanh tịnh ” .
Bấy giờ người với thân huyễn chú tâm vào những giai đoạn định .
Đi vào những giai đoạn của định
như thế nào ?
Trước hết hành giả thiền định về những “ pha ” của tiến trình hòa tan . Khiến những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương tụ lại và hòa tan . Làm khởi lên những dấu hiệu của các định từ ảo ảnh đến tịnh quang . Đến lúc khởi lên khỏi tịnh quang sẽ phát sinh quyết tâm thân huyễn chưa thanh tịnh được chuyển hóa thành thân huyễn thanh tịnh . Bấy giờ khi sinh khởi từ tịnh quang và hình ảnh của thân huyễn thanh tịnh sinh khởi trong tâm .
Đồng thời hành giả kinh nghiệm tiến trình hòa tan theo chiều ngược lại . Đi từ tịnh quang đến gần đạt . . . Cho đến dấu hiệu ảo ảnh . Người đi vào hình tướng Báo thân này sẽ sinh khởi như Hóa thân lưu xuất ra những Madala được duy trì và duy trì . Khi muốn sinh khởi từ thiền định . Hành giả thiền định về những uẩn cũ như Con Người Biểu Tượng với Con Người Trí Huệ ở trái tim .
Trong bình chứa ( Pháp khí ) sẽ chỉ dạy Pháp cho những người thực hành và trau dồi những hoạt động sau thực hành bao gồm những sinh hoạt như : Ăn , uống . . . Hành giả trong giai đoạn thân huyễn trau dồi những thiền định cao cấp . Sau cùng thấy những dấu hiệu về sự thành tựu giai đoạn gọi là : “ Đại hợp nhất của sự thực hành ” đến gần .
Sau đó đi vào điều kiện bên ngoài và điều kiện bên trong . Đó là những thiền định về những giai đoạn hòa tan . . . Cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương tụ lại và hòa tan . Những dấu hiệu của những hòa tan xảy ra từ ảo ảnh đến tịnh quang . Bốn cái không sinh khởi trong bản chất bốn lạc . Vào khoảnh khắc của tịnh quang bổn nguyên . Hành giả đi vào thiền định về : “ Lạc hòa hợp với tánh không ” .
Vào lúc đó năm yếu tố xảy ra đồng thời :
1-
Trạng thái “ Gần đạt đến trong tiến trình hiển lộ ” tự ngừng dứt .
2-
“ Lạc bổn nguyên ” ;
Khơi dẫn sự chứng ngộ trực tiếp chưa từng có về tánh không .
3-
Thân huyễn được tịnh hóa trong tịnh quang thực sự ;
V à xuất hiện như cầu vồng rực rở trong bầu trời .
4-
Hoàn thành giai đoạn không ngăn ngại ;
Đối trị trực tiếp với những che chướng xúc cảm
( Phiền não chướng )
sinh ra trong dòng tâm .
5-
Dòng tương tục của hành giả ;
Trở thành dòng tương tục của vị thánh .
Lúc bắt đầu tiến trình khởi lên khỏi tịnh quang . Sức mạnh hướng dẫn trước kia trong thực hành sẽ vào cuộc . Từ đó đặt hành giả vào cánh cửa thân huyễn thanh tịnh có thể được hoàn thành . Khi khởi lên từ tịnh quang , vai trò nguyên nhân chất thể vào cuộc . Vì năng lực vi tế của năm ánh sáng chiếu diệu . Thế là , thức tịnh quang bổn nguyên thực sự cưỡi lên . Và vai trò của điều kiện hiện diện đồng thời được vào cuộc bởi tâm . Và hành giả khởi lên “ Thân huyễn thanh tịnh ” thực sự . Thân huyễn là dòng không dứt đoạn kết hợp với hình tướng của Phật Vajradhara . Đuợc trang hoàng bởi những tướng chính và phụ và những uẩn cũ đã để lại phía sau .
Đồng thời biểu lộ những dấu hiệu của tiến trình hòa tan ngược lại từ tịnh quang đến gần đạt cho đến dấu hiệu ảo ảnh . Vào lúc đó năm yếu tố cùng xảy ra : “ Thức tịnh quang bổn nguyên ” tự ngừng dứt . Trạng thái “ Gần đạt ” trong tiến trình hòa tan sinh ra sự khởi lên của “ Thân huyễn thanh tịnh ” . Hành giả hoàn thành con đường giải thoát rốt ráo thoát khỏi những che chướng xúc cảm . Dòng tương tục của họ trở thành dòng tương tục của một A La Hán .
Con người của hình tướng Báo thân bấy giờ chú tâm vào định . Và cái gì là những giai đoạn của định ? . Hành giả tập trung và chú ý vào thiền định nhất tâm về tánh không . Khiến những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương “ Tụ lại ” và “ Hòa tan ” ; làm khởi lên những dấu hiệu đến khi tịnh quang xảy ra . Vào lúc đó hành giả đạt đến trạng thái các đại hợp nhất ; và hoàn thành không trở ngại . Nơi thân và tâm có thể hòa hợp thành một thực thể duy nhất . Thân là thân huyễn thanh tịnh trang hoàng bởi những tướng chính và phụ và tâm là thức tịnh quang thực sự .
Khi đến lúc sinh khởi từ kinh nghiệm tịnh quang . Sức mạnh hướng dẫn từ thực hành vào cuộc và hành giả thấy mình ở cánh cửa thân “ Đại hợp nhất trong thực hành ” . Có thể trở thành thân “ Đại hợp nhất vượt khỏi thực hành ” . Hành giả khởi lên từ tịnh quang . Nơi giai đoạn “ Đại hợp nhất của thực hành ” tri giác . Hình ảnh thân thể trong giai đoạn “ Đại hợp nhất vượt khỏi thành hành ” . Đồng thời những dấu hiệu của tiến trình ngược lại xảy ra từ “ Tịnh quang ” đến “ Gần đạt ” . . . cho đến ảo ảnh .
Báo thân ấy nắm giữ tiềm năng của Hóa thân và Hóa thân lưu xuất mạng hoạt động ; như biểu lộ những Mandala được duy trì và mãi duy trì . Khi muốn sinh khởi khỏi thiền định . Hành giả đi vào những hợp uẩn cũ hay những hợp uẩn cũ khác tùy theo những gì thích hợp . Sau đó ở trong bình chứa , hành giả chỉ dạy Pháp cho những người thực hành và trau dồi những hoạt động sau-thực hành . . .
Cách Biểu Lộ Những Kết Quả
Thiền giả ở giai đoạn đại hợp nhất của thực hành . Trau dồi những định của cấp độ trong lúc thiền định chính thức và sau thiền định . Sau cùng nhận thấy những dấu hiệu tiếp cận với chứng đắc “ Đại hợp nhất vượt khỏi thực hành ” . Hành giả có điều kiện bên ngoài là quán tưởng Karmamudra và sự điều kiện bên trong là thiền định nhất tâm về tánh không . Làm cho những năng lực sinh khí đi vào kinh mạch trung ương , trụ lại và hòa tan . Những dấu hiệu xảy ra bắt đầu bằng ảo ảnh . . . Cuối cùng những dấu hiệu của tịnh quang biểu lộ . Bốn cái không sẽ sinh khởi trong bản chất bốn lạc . Khi giây phút tịnh quang bổn nguyên biểu lộ . Thiền giả đi vào thiền định về “ Lạc ” hòa hợp với trí huệ tánh không .
Khoảnh khắc thứ nhất :
Giai đoạn không ngăn ngại trong đó những chướng ngại ;
Tri giác ( Sở tri chướng ) được vượt qua .
Khoảnh khắc thứ hai là:
Khoảnh khắc đầu tiên của Phật quả toàn giác ,
Trong đó thiền định an trụ trong định toàn hảo ;
Về bản tánh tối hậu của tất cả hiện hữu .
Cùng lúc nhận thấy trực tiếp mọi thực tại quy ước ;
Rõ ràng như trái cây nằm trong lòng bàn tay .
Thân của đại hợp nhất của thự hành trở thành đại hợp nhất vượt khỏi thực hành . Báo thân thực sự phát ra hàng ngàn . Hóa thân lưu xuất để làm lợi lạc cho những ai thực hành . Như vậy hành giả hoàn thành Phật quả trọn vẹn trong bản tánh của ba thân .
Sơ bộ để đạt đến giai đoạn đại hợp nhất vượt khỏi thực hành . Hành giả cần phải đi qua giai đoạn đại hợp nhất của thực hành . Sơ bộ cho những điều này hành giả phải hoàn thành thân huyễn . Muốn hoàn thành như thề . Hành giả trước hết thiền định về những kinh mạch , luân xa , nội nhiệt , tan chảy . . .
Lần lượt , sơ bộ cho những thực hành của giai đoạn thành tựu này . Hành giả phải kết thúc của những thực hành giai đoạn phát sinh thô và tế . Nhận lấy sinh , chết và trung ấm làm căn cứ tịnh hóa như con đường của ba thân . Để được thế , phải nhận quán đảnh trọn bộ và trưởng thành , chín chắn trong việc tuân thủ những giới luật được trao vào lúc quán đảnh.
Hơn nữa , trước khi vào thực hành Mật thừa , hành giả cần thực hành tâm thức trong con đường chung . Từ trau dồi một tương quan làm việc hiệu quả với vị thầy tâm linh ; cho đến thực hành thiền định phối hợp Samatha ( Chỉ ) và Vipassyana ( Quán ) . Như thế , hành giả như viên ngọc quý đi vào con đường sâu xa của Sáu Yoga của Naropa trọn vẹn và không lỗi lầm cho sự thành tựu giác ngộ trong một đời ngắn ngủi Cho dù ngay trong thời đại suy đồi này .
Lời kết :
Những ghi chú về dòng những giáo lý của
Vajradhara Lobzang Dondrup ,
Không có gì vượt quá và không có gì bỏ sót ;
Được sao chép và ấn hành bởi :
Nhà sư Phật giáo Basowa Tenpai Gyaltsen
( Đệ tử của ngài Lobzang Dondrup )
http://www.herbalworldcenter.com/tantra/sau-phap-du-da-cua-naropa.htm