TRƯỜNG PHỆ ÐÀN ÐÀ.
Giáo Chủ là Rishi Vyasa.
Védanta chỉ thích hợp với những người tiến hóa đã cao. Trường nầy nói với con người như vầy : Sự hiểu biết cùng tột, ngươi hãy tìm trong mình ngươi, ngươi sẽ gặp, ngươi đừng tìm kiếm ở ngoài ngươi. Nếu ngươi muốn biết Ðức Thượng Ðế thì Ngươi hãy tự biết ngươi đã, bởi vì Chơn Nhơn và Ðức Thượng Ðế đều vẫn là một. Sự phân tích một giọt nước biển đủ cho ta biết biển cả làm bằng những chất chi hợp lại. Chơn Nhơn đối với Thượng Ðế cũng thế. Nếu ngươi muốn tự biết ngươi thì ngươi phải lìa khỏi Vật chất và thắng phục nó.
Muốn thành công con người phải nhờ phương pháp Yoga .
Yoga nầy khác với Yoga của Patanjali, dầu rằng nó trùng tên.
Yoga hay là sự hiệp nhứt với Thượng Ðế chia ra làm năm nhánh :
Hatha Yoga (theo con đường luyện hô hấp).
Bhakti Yoga (theo con đường tín ngưỡng).
Karma Yoga (theo con đường hành động).
Jnana Yoga (theo con đường trí tuệ).
Raja Yoga (Chúa tể các Yoga).
Học hết sáu hệ thống nầy rồi suy nghĩ, chúng ta phải công nhận sáu vị Giáo chủ toàn là những bực Ðại Giác ngộ. Mấy ngàn năm trước người ta đã biết vạn vật do những nguyên tử cấu thành, thật là đáng cho người đời nay bái phục.
Trên đây là nói tổng quát sáu Trường Triết Học Aán. Còn nhiều chi tiết nữa và rất khó. Muốn hiểu phải đọc riêng nhiều quyển giải về mỗi Trường, bởi vì mấy quyển đó bổ túc lẫn nhau, có quyển thiếu sót điều nầy, có quyển thiếu sót điều kia.
Bây giờ xin nói vài lời về Prakriti và Purusha.
PURUSHA VÀ PRAKRITI THEO PHÁI SANKHYA.
1- PURUSHA.
Khởi đầu thì phái Sankhya nói rằng Vũ trụ có ra đây do hai yếu tố nguyên thủy đối chọi nhau : Aáy là Tinh Thần (Purusha : Esprit) và Vật Chất (Prakriti) hay đúùng hơn nữa là những Chơn Thần (les Esprit) và Vật Chất.
Tinh Thần là Purusha, ấy là Con Người, một cá nhân. Purusha là một đơn vị Tâm Thức. Tất cả những Purusha đều đồng bản tánh với nhau. Nhưng cả thảy đều khác nhau.
Mỗi Purusha đều có ba đặc tánh :
1- Ðặc tánh thứ nhứt là : Sự nhận ra, nó sẽ biến thành quyền năng Hiểu biết.
2- Ðặc tánh thứ nhì là : Sự Sống hay là Prana sau thành ra sự Hoạt động.
3- Ðặc tánh thứ ba là : Sự bất di bất dịch, bất biến sau thành ra Ý chí.
Theo phái Védanta (Phệ Ðàn Ðà) thì ba đặc tánh nầy lấy tên là Chit - Sat -Ananda.
- Quyền năng Hiểu biết là Chit.
- Sự Sống và Sức mạnh là Sat.
- Sự bất biến, tinh hoa của vĩnh cữu là Ananda.
2- PRAKRITI.
Ðối chiếu với Tinh Thần Purusha là Vật Chất Prakriti.
Prakriti là một, duy nhất, còn Purusha thì hằng hà sa số.
Bản tánh của Prakriti là liên tục, không dứt ngang, còn bản tánh của Purusha là gián đoạn, cách đoạn (intermittent).
Chiết tự Prakriti, thì Pra là cội rễ, có nghĩa là ở ngoài, còn Kri là làm.
Prakriti có nghĩa là : sản xuất, sanh sản (Produire).
Prakriti có ba đặc tánh gọi là ba Gu na (Guna) tiếng Phạn là :
1- Sattva : Hòa Thanh - Tiết Ðiệu - Harmonie, Rythme.
2- Rajas : Ðộng - Activité.
3- Tamas : Tịnh - Inertie.
Nhờ Tiết Ðiệu, Hòa Thanh mà Quyền năng hiểu biết thành ra sự Hiểu biết.
Nhờ Ðộng mà sự Sống thành ra sự Hoạt động.
Nhờ Tịnh mà sự Bất biến thành ra Ý chí.
Khi ba đặc tánh : Ðộng, Tịnh, Hòa Thanh quân bình, thì Vật chất nằm yên, người ta gọi nó là chất chết.
Nhưng khi Tinh Thần Purusha nhập vô Vật chất thì có một sự biến đổi lớn lao, nó làm mất sự thăng bằng, Vật chất có sự Sống, có Hình dạng và Hoạt động.
QUAN NIỆM CỦA PHÁI VÉDANTA - PHỆ ÐÀN ÐÀ.
Theo phái Phệ Ðàn Ðà thì Bản Ngã là một, duy nhất, hiện diện khắp nơi, vô sở bất tại (Omniprésent). Giống như dĩ thái nó thấm nhuần vạn vật, chủ trị và nuôi sống tất cả. Bản Ngã vốn đại đồng, nó vừa là sự Sống, vừa là Tâm Thức, vừa là Chí Phúc một lượt (Sat - Chit - Ananda).
Triết lý của phái Phệ Ðàn Ðà cao hơn quan niệm của phái Sankhya.
Sự khác biệt lớn lao giữa hai phái Sankhya và Védanta là :
Theo phái Sankhya thì Bản Ngã Purusha là khán giả chớ không phải là kẻ đóng tuồng, diễn viên.
Còn phái Védanta nói rằng, Bản Ngã Purusha đóng tuồng, ngoài Purusha ra thì cả thảy đều là Maya (ảo ảnh). Chính là Purusha hành động.
Như kinh Upanishad : Chơn Thần [7] muốn thấy thì nó có mắt, nó muốn nghe thì nó có tai, nó muốn suy nghĩ thì nó có cái Trí. Con mắt, lổ tai, cái Trí có đây là nhờ Chơn Thần sanh chúng nó ra.
Chơn Thần chiếm lấy Vật chất đặng biểu lộ quyền năng của mình.
Ðây là điểm chỉ rõ sự khác biệt giữa hai Trường Sankhya và Védanta.
Xin nhắc lại : Theo phái Sankhya thì sự hiện diện của Chơn Thần Purusha làm phát động những đức tánh của Prakriti và chính là Prakriti hành động chớ không phải Purusha.
Còn theo phái Védanta thì có một mình Chơn Thần Purusha mà thôi. Chơn Thần hoạt động. Nó tưởng tượng sự giới hạn thì Vật chất hiện ra. Nó lấy Vật chất nầy đặng biểu lộ quyền năng của nó.
Ðức Bà A. Besant nói rằng : Phái Sankhya nhìn xem Vũ trụ theo phương diện khoa học, còn Phái Védanta thì quan sát Vũ trụ theo quan điểm của Huyền Bí Học.
VÀI LỜI VỀ ANTAHKARANA.
Theo kinh sách Phệ Ðàn Ðà thì cái Trí là cơ quan bên trong. Phái Phệ Ðàn Ðà dùng danh từ Antahkarana để ám chỉ cái Trí. Họ nói : Antahkarana gồm bốn phần : Manas - Bouddhi - Ahamkara và Chitta.
Ý nghĩa của bốn danh từ nầy như sau đây :
1- Manas : Nguyên lý của sự xét đoán (Principe de jugement).
2- Bouddhi : Bồ Ðề : Minh Triết.
3- Ahamkara : Aûo ảnh của Phàm nhơn (Illusion de la personnalité).
4- Chitta hay Chetah : Tư tưởng, Sự khôn ngoan (pensée, intelligence).
Tổng hợp của bốn danh từ nầy thì không biết chúng ám chỉ cái chi.
Theo Tự điển Rhéa thì Antahkarana có hai nghĩa :
Một là : Cơ quan sâu kín nối liền con người với bản chất thiêng liêng của nó (le sens intime qui relie l’homme encarné à son essence spirituelle).
Hai là : Sự liên lạc giữa Thượng Trí và Hạ Trí (lien entre le Manas supérieur et la Manas inférieur).
Antahkarana còn một tên nữa là Antarindriyani (sens intérieur) cơ quan bên trong .
Theo Ðức Bà A. Besant thì Manas, Bouddhi, Ahamkara là ba cạnh của một hình tam giác gọi là Chitta.
Chitta không phải là một yếu tố thứ tư mà nó là tổng số của ba yếu tố kia.
Ta gặp ở đây ý niệm của ba ngôi trong một đơn vị.
http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20nhung%20truong%20phai%20triet%20hoc%20an%20do.htm