CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN Empty
Bài gửiTiêu đề: KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN   KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeMon Jun 06, 2011 7:24 am


KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN

Trích trong SỰ CHẾT VÀ SAU ĐÓ ? (DEATH AND AFTER ?)
Tác giả: Annie Besant Bản dịch Chơn Như 2006

Loka là một từ Bắc phạn mà ta có thể dịch là nơi chốn, thế giới, cõi, sao cho Kāmaloka có nghĩa đen là nơi chốn hoặc thế giới của Dục vọng; Kāma là tên gọi cái bộ phận cơ cấu của con người vốn bao gồm mọi đam mê, ham muốn và xúc động mà con người có chung với loài thú hạ đẳng (Xem Bảy Nguyên Khí Của Con Người trang 17-21). Trong cõi phân chia của vũ trụ này, Kāmaloka là nơi cư ngụ của mọi thực thể con người đã rũ bỏ xác phàm và thể phách nhưng chưa cởi bỏ được bản chất đam mê và xúc động. Kāmaloka còn có nhiều cư dân khác nhưng chúng ta chỉ quan tâm tới những con người mới bước qua ngưỡng cửa Sự Chết và ta phải tập trung nghiên cứu về những thực thể này.
Xin lỗi, tôi cần phải nói lạc đề một lúc về vấn đề sự tồn tại của các cõi trong vũ trụ khác hơn cõi hồng trần nhưng vẫn có những thực thể thông minh ở trong đó. Sự tồn tại của những cõi ấy là định đề của Triết lý Bí truyền, các Cao đồ và rất nhiều người nam nữ kém tiến hóa hơn đều biết được điều này do kinh nghiệm cá nhân; muốn nghiên cứu những cõi này thì chỉ cần khai triển những năng lực ẩn tàng nơi mỗi con người; theo ngôn ngữ bình thường thì một người “còn sống” có thể bỏ lại xác phàm và thể phách để thăm dò các cõi này mà không cần phải bước qua ngưỡng cửa Sự Chết. Do đó ta đọc thấy trong Tạp chí Nhà Thông Thiên Học là Tinh thần nơi người sống có thể đạt được tri thức chân thực khi bước vào quan hệ hữu thức với thế giới Tinh thần.
Thậm chí trong trường hợp của một bậc Cao đồ đã được điểm đạo thì ngài còn mang lại xuống trần thế những hồi ức minh bạch và rõ ràng (chính xác tới từng chi tiết) về những sự kiện thu thập được và thông tin thu hoạch được trong cõi vô hình của Thực tại (Tạp chí Nhà Thông Thiên Học số tháng 3 năm 1882, trang 158, Chú thích).
Bằng cách này các cõi đó trở thành đề tài tri thức của ngài cũng xác định chắc chắn và quen thuộc chẳng khác nào khi ngài đi du hành tới Phi châu theo phương cách bình thường, thám hiểm các sa mạc và trở về xứ sở Phi châu theo mùa ắt chẳng màng tới sự chỉ trích (đối với bài tường trình của mình) của những kẻ chưa bao giờ đi đến đó; y có thể kể lại điều mà mình thấy, mô tả những con thú với những thói quen mà y đã nghiên cứu, phác họa xứ sở mà mình đã đi băng qua, tổng kết những sản phẩm và đặc tính của nó. Nếu y bị cãi lại, chế nhạo, sửa lưng bởi những kẻ chỉ trích chưa hề đi du lịch, thì y ắt chẳng bực mình mà cũng không lấy làm khốn khổ, và chỉ mặc xác những người đó. Sự dốt nát không thể thuyết phục được sự hiểu biết chỉ bằng cách lập đi lập lại việc xác nhận là mình không biết. Ý kiến của một trăm người về một đề tài mà họ dốt đặc cán mai thì cũng chẳng có quan trọng hơn ý kiến của chỉ một người như thế. Bằng chứng được củng cố bởi nhiều nhân chứng đồng thuận với nhau, mỗi người chứng nhận sự hiểu biết này là đúng sự thật nhưng chẳng biết gì mà có nhân lên gấp cả ngàn lần thì vẫn là không hiểu biết. Quả thật là kỳ lạ thay nếu mọi không gian xung quanh ta đều trống rỗng, đều chỉ là khoảng không bị bỏ hoang, và những cư dân trên trái đất là những hình thái duy nhất mà trí thông minh có thể ngự trong đó. Tiến sĩ Huxley có nói như sau:
Nếu không bước ra khỏi khuôn khổ sự tương tự với điều mà ta đã biết, thì ta dễ dàng gán cho vũ trụ có chứa những thực thể theo một thang độ ngày càng cao hơn cho tới khi chúng ta đạt đến một điều gì đó hầu như không thể phân biệt được với sự toàn năng, toàn thiện và toàn tri. (Luận về một số Vấn đề còn Tranh cãi, trang 36).
Nếu những thực thể này không có giác quan giống như chúng ta, nếu giác quan của họ đáp ứng với những rung động khác với những rung động ảnh hưởng tới giác quan của chúng ta, thì họ và chúng ta có thể bước sánh vai bên nhau, đi qua nhau, đụng đầu với nhau, luồn lách qua nhau, thế nhưng chẳng bao giờ biết được về sự tồn tại của nhau. Ông Crookes có cho ta thoáng thấy khả năng của tồn tại vô ý thức như thế của các sinh linh thông tuệ, và ta chỉ cần nỗ lực tưởng tượng chút ít là cũng nhận thức được quan niệm này.
Rất có thể là các chúng hữu tình khác có những giác quan không đáp ứng với một số tia mà mắt ta bén nhạy, nhưng họ có thể thẩm định được những rung động khác mà chúng ta lại không thấy. Những thực thể như thế thực tế là sống trong một thế giới khác với thế giới của chúng ta. Chẳng hạn như hãy tưởng tượng xem liệu ta sẽ có ý niệm như thế nào về những sự vật xung quanh nếu chúng ta được phú cho đôi mắt không nhạy cảm với những tia sáng bình thường mà lại nhạy cảm với những rung động liên quan tới các hiện tượng điện và từ. Thủy tinh và pha lê ắt là một trong số những vật thể mờ đục nhất. Kim loại ắt ít nhiều trong suốt, và một sợi dây điện tín bắt ngang qua không khí ắt trông giống như một cái lỗ dài và hẹp được khoan qua một vật rắn chắc không thấu suốt được. Một máy đynamô đang hoạt động tích cực ắt giống như một đám cháy, còn nam châm vĩnh cửu ắt thực hiện được giấc mơ của các thần bí gia trung cổ, và trở thành một ngọn đèn vĩnh cửu không cần tiêu tốn năng lượng hoặc tiêu thụ nhiên liệu (Bán nguyệt san năm 1892, trang 176).
Kāmaloka là một cõi có chứa những thực thể thông tuệ và bán thông tuệ, cũng như cõi của chúng ta có người ở thì cõi đó cũng lúc nhúc nhiều thứ và nhiều dạng sinh linh, cũng khác nhau giống như một ngọn cỏ khác với một con cọp, còn một con cọp lại khác với một con người. Nó xuyên thấu cõi của chúng ta và cõi của chúng ta cũng xuyên thấu qua nó, nhưng vì các trạng thái vât chất nơi hai cõi này là khác nhau cho nên chúng cùng tồn tại với nhau mà các thực thể thông tuệ trong hai cõi không hề hay biết. Chỉ trong những trường hợp bất thường thì ý thức về sự hiện diện của cõi kia mới xuất lộ trong đám cư dân của hai cõi. Nhờ vào một sự rèn luyện đặc thù nào đó, một người còn sống có thể bước vào kiểm soát và tiếp xúc hữu thức được với nhiều cư dân dưới nhân loại của Kāmaloka; những người nào vừa từ trần mà có những yếu tố dục vọng mạnh mẽ thì có thể rất dễ dàng bị thu hút bởi những yếu tố dục vọng nơi những người còn đang mang xác và nhờ vào những người này, họ lại có thể có ý thức trở lại về sự hiện diện của những bối cảnh mà họ vừa rời bỏ; những người vẫn còn mang xác phàm có thể lập nên được những phương pháp giao tiếp với những người đã thoát xác và như ta có nói, người sống có thể rời bỏ thân xác của mình trong một lúc và trở nên hữu thức nơi Kāmaloka bằng cách vận dụng những năng lực mà họ đã khiến cho tâm thức của mình quen với việc hành xử như thế. Ở đây có một điều mà ta phải hiểu cho rõ, đó là Kāmaloka tồn tại như một cõi xác định, là nơi cư trú của rất nhiều loại thực thể trong số đó có những người đã thoát xác.
Sau khi nói lạc đề những điều cần thiết như vậy, chúng ta quay lại nơi những con người đặc thù mà ta có thể nói là mình đang theo dõi số phận của họ như một thứ tiêu biểu; họ đã vứt bỏ xác phàm và thể phách rồi. Ta hãy xem xét y trong tình trạng kéo dài một thời gian rất ngắn nối tiếp việc rũ bỏ hai lớp vỏ này. Sau khi trích dẫn Plutarch mô tả việc con người sau khi chết ra sao, H. P. Blavatsky có nói.
Ở đây ta có giáo lý cho thấy rằng con người là một thực thể thất bội trong khi còn sống và là một thực thể ngũ bội ngay sau khi chết và đang ở Kāmaloka (Chìa khóa Thông Thiên Học, trang 67).
Prāna tức cái bộ phận của năng lượng sống mà con người chiếm hữu khi còn mang xác phàm; Prāna này đã mất hiện thể của mình tức là thể phách; cùng với xác phàm thể phách đã thoát ra khỏi khả năng kiểm soát của Prāna cho nên Prāna phải trở lại cái kho sinh lực lớn lao của vũ trụ. Cũng giống như nước chứa trong một bình thủy tinh và nhúng trong một cái thùng phi sẽ trộn lẫn với nước xung quanh nếu cái bình thủy tinh bị bễ, cũng vậy Prāna lại hòa lẫn vào Sự sống Vũ trụ khi cái hạ thể bị rơi rụng đi. “Chỉ sau khi chết” thì con người mới có cấu tạo ngũ bội vì Prāna với vai trò là một nguyên khí riêng biệt của con người không còn bị chiếm hữu khi hiện thể của nó đã phân rã.
Giờ đây con người chỉ khoác lấy Kāma Rūpa, tức hiện thể của Kāma, thể dục vọng, thể cấu tạo bằng vật chất của cõi trung giới, thường được gọi là rất “linh động” vì trong buổi sinh thời nó rất dễ dàng khoác lấy bất kỳ hình dáng nào do bên ngoài ấn định hoặc bên trong uốn nắn. Con người sống động vẫn ở đó, Tam nguyên bất tử vẫn còn khoác lấy lớp áo trần tục cuối cùng của mình ở trong những hình tướng tinh vi, nhạy cảm, bén nhạy khiến cho nó trong khi còn lâm phàm có khả năng xúc cảm, ham muốn, hưởng thụ, đau khổ và suy tư trên cõi trần.
Khi con người chết, ba nguyên khí thấp rời bỏ y mãi mãi; đó là xác phàm, sinh lực và hiện thể của sinh lực tức là thể phách, tức là cái phách của người còn sống. Lúc bấy giờ bốn nguyên khí của y – gồm có nguyên khí trung tâm hoặc trung gian (hồn thú tức Kāma Rūpa với những gì mà nó đã đồng hóa được của Hạ trí) và Tam nguyên thượng – bèn tồn tại nơi Kāmaloka (Chìa khóa Thông Thiên Học, trang 97).
Thể dục vọng này trải qua một sự thay đổi đáng kể ngay sau khi chết. Những tỉ trọng khác nhau của vật chất cõi trung giới cấu tạo thành nó bèn sắp xếp lại thành một chuỗi những lớp vỏ, lớp vỏ thô nhất ở ngoài cùng đóng chặt tâm thức khỏi mọi sự tiếp xúc ngoại trừ có được một sự tiếp xúc hoặc biểu hiện rất hạn chế. Nếu không bị quấy rầy thì tâm thức chỉ lẩn quẩn với chính mình và chuẩn bị cho bước kế tiếp sắp tới, còn thể dục vọng dần dần bị tan rã hết lớp vỏ này đến lớp vỏ kia.
Mãi cho tới khi vật chất của thể dục vọng được sắp xếp lại như trên thì kinh nghiệm sau khi chết của mọi người đều rất giống nhau; như ta nói trước kia đó là tình trạng “bán ý thức, lơ mơ, yên bình” và trong những trường hợp may mắn nhất thì tình trạng này chuyển sang tình trạng “vô ý thức tiền Devachan” mà không tỉnh táo hơn; trạng thái vô thức này kết thúc khi con người tỉnh dậy một cách phúc lạc nơi cõi Devachan, cõi trời, để trải qua thời kỳ an dưỡng trung gian giữa hai kiếp lâm phàm. Nhưng về vấn đề này vì có nhiều khả năng khác nhau cho nên ta hãy theo dõi một sự tiến triển bình thường không gián đoạn nơi Kāmaloka mãi cho tới ngưỡng cửa của Devachan, thế rồi chúng ta mới có thể quay lại xem xét các loại trường hợp khác.
Nếu một người sống trong cuộc đời thanh khiết và đã kiên cường phấn đấu vươn lên đồng nhất hóa mình với phần cao siêu hơn là phần thấp hèn của bản chất, thì sau khi rũ bỏ xác phàm và thể phách và sau khi Prāna đã hòa lẫn trở lại với đại dương Sự Sống, y chỉ còn khoác lấy Kāma Rūpa; các yếu tố đam mê nơi y vì còn yếu ớt và đã quen với việc tương đối ít hoạt động, cho nên không thể khẳng định mạnh mẽ nơi Kāmaloka. Thế mà trong buổi sinh thời Kāma thì Ha trí đã tẩy trược được Kāma khá nhiều. Hạ trí vốn đan xen với những đam mê, xúc động và ham muốn đã tẩy trược được những thứ này, đã đồng hóa được phần tinh anh của chúng, đã hấp thụ được phần tinh túy này vào bản thân sao cho tất cả những gì còn lại nơi Kāma chỉ là tàn dư dễ bị vứt bỏ khiến cho Tam nguyên Bất tử có thể dễ dàng được giải thoát. Tam nguyên Bất tử tức Chơn nhơn từ từ thu hồi mọi thần lực về, y thu hút về bản thân những ký ức trong cuộc sống nơi cõi trần vừa chấm dứt, những yêu thương, hi vọng, hoài bão và chuẩn bị chuyển ra khỏi Kāmaloka để nhập vào sự an dưỡng cực lạc nơi Devachan, “nơi chốn của Chư thiên”, hoặc theo một số người nói thì đó là “cõi Cực lạc”. Kāmaloka là một cõi thuộc trung giới, là Luyện ngục của thần học kinh viện, là Âm ty của cổ nhân, và nói cho đúng thì nó chỉ là một cõi theo nghĩa tương đối. Nó không có một khu vực nhất định, không có biên giới mà tồn tại bên trong không gian nội giới của ta, nghĩa là vượt ngoài tầm sự nhận thức giác quan của chúng ta. Thế nhưng nó vẫn cứ tồn tại và chính nơi đây cái xác của cõi trung giới thuộc đủ mọi thực thể sinh linh bao gồm cả con thú đang chờ đợi sự chết lần thứ nhì. Đối với con thú thì nó xảy ra khi các cấu tử của thể vía tan rã và hoàn toàn tan biến đi đến hạt cuối cùng. Đối với cái xác chết thể vía của con người thì điều nay bắt đầu khi ta nói rằng Tam nguyên thượng Atma Buddhi Manas “tách ra” khỏi các nguyên khí thấp tức phản ánh của cố phàm ngã để rồi nhập vào trạng thái Devachan (Chìa khóa Thông Thiên Học, trang 97).
Vậy là sự chết lần thứ nhì này là việc Tam nguyên Bất tử chuyển ra khỏi Kāmaloka (vốn có quan hệ mật thiết với cõi trần) để nhập vào trạng thái Devachan cao hơn mà sau này chúng ta phải nhắc tới. Loại người mà ta đang xét chuyển qua cõi này trong trạng thái lơ mơ yên bình mà ta đã mô tả và nếu không bị quấy nhiễu thì nó sẽ chỉ hồi phục lại ý thức trọn vẹn khi đã trải qua hết những giai đoạn này và sự yên bình nhường chỗ cho sự Cực lạc.
Nhưng trong trọn thời kỳ mà năm nguyên khí (bao gồm Tam nguyên Bất tử, Hạ trí và Dục vọng) vẫn còn ở nơi Kāmaloka, cho dù thời kỳ này dài hay ngắn, hằng thế kỷ hoặc chỉ một ngày, thì họ vẫn còn ở trong tầm ảnh hưởng của cõi trần. Trong trường hợp một người mà ta đang mô tả thì việc thức tỉnh lại có thể được tạo ra do sự buồn rầu và ham muốn đầy đam mê của những người bạn bị bỏ lại trên trần thế; những yếu tố dục vọng rung động mãnh liệt này nơi người còn đang mang xác phàm có thể cảm ứng nên những rung động nơi thể dục vọng của người đã thoát xác, do đó đạt tới và kích động được Hạ trí vẫn còn chưa triệt thoái để hiệp nhất với cha của mình tức Thượng trí. Vì vậy nó có thể bị kích động thoát khỏi trạng thái lơ mơ để bồi hồi nhớ lại kiếp sống trên trần thế vừa mới rời bỏ, và – nếu có dính dáng tới một người thông linh hoặc một đồng cốt, cho dù gián tiếp hoặc trực tiếp qua một trong những người bạn đang buồn khổ giao thiệp với người đồng cốt – có thể sử dụng thể phách cùng với xác phàm của người đồng cốt để nói chuyện hoặc viết lách giao thiệp với những người bị bỏ lại đằng sau. Sự thức tỉnh này thường có kèm theo sự đau khổ ghê gớm, và cho dù có tránh được điều này thì người ta đã can thiệp thô bạo vào tiến trình giải thoát tự nhiên của Tam nguyên thượng, và làm trì hoãn việc hoàn tất sự giải thoát đó. Khi nói tới khả năng giao tiếp trong thời kỳ ngay sau khi chết và trước khi Chơn nhơn giải thoát chuyển sang Devachan, H. P. Blavatsky có nói:
Liệu bất kỳ một người phàm phu còn sống nào (ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ) – khi sự mãnh liệt của lòng ham muốn nơi kẻ đang hấp hối muốn trở lại vì mục đích nào đó khiến cho tâm thức cao siêu vẫn còn tỉnh táo, vì vậy quả thực chính là chơn ngã, tức “Chơn linh” đang giao tiếp – có rút ra được nhiều lợi ích từ việc Chơn linh trở về ngoại giới hay chăng thì đó lại là vấn đề khác. Sau khi chết, Chơn linh choáng váng và chẳng bao lâu rơi vào điều mà chúng ta gọi là “sự vô ý thức tiền Devachan” (Chìa khóa Thông Thiên Học, trang 102).
Lòng ham muốn mãnh liệt có thể thôi thúc thực thể đã thoát xác tự phát quay lại với những người đang buồn khổ bị bỏ lại phía sau, nhưng sự quay lại tự phát này là hiếm có trong trường hợp những người thuộc loại mà chúng ta đang xét đến. Nếu họ bị bỏ mặc không quấy nhiễu thì nói chung họ yên lặng ngủ thiếp đi để nhập vào Devachan và như vậy tránh được bất kỳ sự phấn đấu hoặc đau khổ nào liên quan tới cái chết lần thứ nhì. Khi cuối cùng Tam nguyên Bất tử đã được giải thoát thì nơi Kāmaloka chỉ còn lại cái xác của thể vía, tức “Ma hình” (Shell) vốn chỉ là một bóng ma rỗng tuếch, nó dần dần bị tan rã; nhưng tốt hơn là ta nên bàn tới vấn đề này khi xem xét loại người kế tiếp, là một người nam nữ bình thường đặc biệt không có tính linh thuộc loại cao siêu nhưng cũng không có khuynh hướng độc ác rõ rệt.
Khi một người nam nữ bình thường đạt tới Kāmaloka thì trí tuệ bị bao bọc bởi một thể dục vọng vốn có khá nhiều sức sống và sự sung mãn; Hạ trí vốn đan xen chặt chẽ với Kāma trong kiếp trần ai vừa chấm dứt đã linh hoạt rất nhiều trong việc hưởng thụ các đối tượng của giác quan và trong những khoái lạc đầy xúc động cho nên không thể nhanh chóng thoát ra khỏi mạng lưới do chính mình dệt nên để trở về với cái Trí Tổ phụ của mình, là cội nguồn bản thể của mình. Vì vậy mới có sự chậm trễ đáng kể trong cõi chuyển tiếp, tức Kāmaloka, trong thời gian đó ham muốn mòn mỏi đi và mờ nhạt đi đến mức chúng không còn giam cầm Linh hồn với những bàn tay níu kéo.
Như ta có nói trong thời kỳ mà Tam nguyên Bất tử cũng như Hạ trí và Dục vọng còn liên kết với nhau ở Kāmaloka có thể có sự giao tiếp giữa thực thể đã thoát xác và những thực thể còn mang xác trên cõi trần. Những thực thể đã thoát xác thường hoan nghênh sự giao tiếp như thế vì những ham muốn và xúc động của họ vẫn còn bám lấy cõi trần mà họ vừa rời bỏ và trí tuệ chưa sống đầy đủ trên cõi của riêng mình để tìm thấy trong đó sự thỏa mãn và vừa lòng trọn vẹn. Hạ trí vẫn còn khao khát thỏa mãn tham dục và những cảm giác sôi sục của kiếp sống trên trần thế, và do những sự khao khát như thế nó có thể bị níu kéo trở lại những bối cảnh mà nó đã tiếc nuối rời bỏ. Khi nói tới khả năng giao tiếp giữa Bản ngã của người đã chết và một đồng cốt trong Tạp chí Nhà Thông Thiên Học (Số tháng 6 năm 1882 - Bài Những Điều dường như Chuệch choạc) H. P. Blavasky có nói theo giáo huấn mà bà nhận được của các Chơn sư, thì sự giao tiếp như thế có thể xảy ra trong hai thời khoảng:
Thời khoảng thứ nhất là thời kỳ giữa lúc xác phàm chết và lúc Chơn ngã hòa lẫn vào các trạng thái mà giáo lý bí truyền của Chư La Hán gọi là Bardo. Chúng tôi đã dịch thuật ngữ này là thời kỳ “tụ sinh”, tức thời kỳ tiền Devachan.
Một số những sự giao tiếp qua đồng cốt bắt nguồn từ kiểu này do những thực thể đã thoát xác bị níu kéo trở về cõi trần – đây là một sự tử tế độc ác làm trì hoãn sự tiến hóa hướng lên trên của nó và du nhập một yếu tố bất ổn vào điều lẽ ra là một sự tiến bộ theo trật tự. Vậy là thời kỳ ở Kāmaloka bị kéo dài ra, thể dục vọng được cung dưỡng và nó vẫn duy trì được sự níu kéo đối với Chơn ngã, như thế sự tự do của Linh hồn bị trì hoãn, Con Chim Én bất tử vẫn còn bị nhựa bẫy chim trên cõi trần níu kéo sà xuống.
Những người đã sống một cuộc đời tồi bại, đã thỏa mãn và kích động những đam mê đầy thú tính, đã thả lỏng cho thể dục vọng lộng hành trong khi lại bỏ đói hạ trí; những người này sẽ ở lại lâu dài trên Kāmaloka vì chất chứa đầy lòng khao khát đối với cuộc sống trần tục mà mình đã rời bỏ, và vẫn khao khát những khoái lạc đầy thú tính mà mình không còn có thể trực tiếp thưởng thức được nữa vì đã mất thể xác rồi. Những người này tụ tập xung quanh người đồng cốt và kẻ thông linh, cố gắng sử dụng họ để thỏa mãn cho riêng mình và đây là một trong số những lực lượng nguy hiểm nhất mà kẻ thiếu suy nghĩ và tò mò rất dễ chạm trán một cách khinh suất vì thiếu hiểu biết.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN   KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN I_icon_minitimeMon Jun 06, 2011 7:24 am

Một loại thực thể thoát xác khác bao gồm những người đã sống trên trần thế nhưng số kiếp đã rút ngắn lại trước thời hạn do hành động của chính mình, do hành động của người khác hoặc do tai nạn. Số phận của họ nơi Kāmaloka còn tùy thuộc vào tình huống liên quan tới việc họ từ trần, vì đâu phải mọi kẻ tự tử đều phạm tội tự sát và mức độ trách nhiệm có thể thay đổi trong một phạm vi rất rộng. Tình trạng của những người đó đã được mô tả như sau:
Những người tự tử mặc dù không hoàn toàn cắt đứt với các nguyên khí thứ sáu và thứ bảy, và vẫn còn nhiều năng lực trong phòng lên đồng; song le cho tới ngày lẽ ra họ tới số vì chết tự nhiên thì họ vẫn còn bị ngăn cách với các nguyên khí cao một trời một vực. Các nguyên khí thứ sáu và thứ bảy vẫn còn thụ động và tiêu cực, còn trong trường hợp bất đắc kỳ tử thì các nhóm nguyên khí cao và thấp thực sự thu hút lẫn nhau. Hơn nữa trong trường hợp những người tốt và vô tội thì các nguyên khí thấp bị thu hút không thể cưỡng được về phía nguyên khí thứ sáu và thứ bảy; như vậy hoặc là họ ngủ lơ mơ với những giấc mơ êm đềm hoặc là họ ngủ một giấc ngủ say không mộng mị cho đến lúc tới số. Chỉ cần suy ngẫm một chút và quan tâm tới sự công bằng vĩnh hằng và sự thích ứng của mọi chuyện thì bạn ắt hiểu tại sao lại như thế. Nạn nhân cho dù tốt hay xấu đều không chịu trách nhiệm về cái chết của mình. Cho dù cái chết của y là do một hành động nào đó trong kiếp trước hoặc trước khi sinh ra, nói tóm lại đó là một hành vi theo Luật Báo Phục thì nó cũng không phải là kết quả trực tiếp của một hành vi mà phàm ngã cố tình phạm phải trong kiếp sống mà y đâm ra bị chết. Nếu y được phép sống lâu hơn, thì y có thể đã chuộc tội một cách hữu hiệu hơn đối với những người phạm tội trước kia của mình, và ngay cả bây giờ nếu phàm ngã đã trả sạch món nợ của kẻ gây ra nợ đó, thì phàm ngã kiếp này đã tránh được những cú trừng phạt của sự công bình báo phục. Những đấng Dhyan Chohans không có nhiệm vụ hướng dẫn những Chơn ngã người còn sống ắt bảo vệ cho những nạn nhân bơ vơ khi nó bị thô bạo trục xuất ra khỏi yếu tố của mình nhập vào một yếu tố mới trước khi nó đã trưởng thành để thích hợp và sẵn sàng với chuyện đó.
Cho dù tự tử hay bất đắc kỳ tử thì những người này cũng có thể giao tiếp với những kẻ còn sống trên cõi trần nhưng gây thiệt hại rất nhiều cho chính mình. Như ta đã nói ở trên, kẻ tốt lành và vô tội may mắn thay được yên ngủ cho đến lúc đã tới số. Nhưng khi nạn nhân của một tai nạn là kẻ đồi trụy và thô lỗ thì số phận của y là thật đáng buồn.
Những âm ma bất hạnh nếu đầy tội lỗi và tham dục thì sẽ đi lang thang cho tới khi đã đến đúng số (đó không phải là các ma hình vì mối liên hệ với hai nguyên khí cao chưa hề bị cắt đứt. Bị chết trong khi còn đang tràn đầy nhựa sống với những đam mê trần tục trói buộc họ vào những khung cảnh quen thuộc. Họ bị cám dỗ với những cơ hội mà đám đồng cốt cung cấp để thỏa mãn cho họ kiếp sống tầm gửi. Họ là các hấp tinh quỉ, những con yêu râu xanh thời trung cổ, những con quỉ đói khát đầy tham dục và bần tiện, đó là nhựng Âm ma hết sức quỉ quyệt, độc ác và tàn bạo; chúng kích động nạn nhân của mình gây ra những tội ác khủng khiếp, và hả hê khi thấy họ phạm tội. Chúng chẳng những làm hại nạn nhân của mình mà những con ma cà rồng thông linh này còn bị lôi cuốn theo dòng thác của những xung động địa ngục để rồi cuối cùng khi đã đến lúc ấn định cho họ tự nhiên tới số thì chúng sẽ bị lôi cuốn ra khỏi hào quang của trái đất để nhập vào cõi mà trong hằng bao nhiêu thời đại chúng phải chịu cực kỳ đau khổ để rồi kết liễu bởi sự hủy diệt hoàn toàn.
Thế mà những nguyên nhân tạo ra “sinh linh mới” và xác định bản chất của Nguyệp báo chính là ái dục Trishnā, (Tanha) tức là sự khao khát, ham muốn cuộc sống hữu tình và Thủ Upādāna nghĩa là việc thực hiện hoặc hoàn tất Ái dục, tức ham muốn đó. Và người đồng cốt góp phần phát triển tột cùng cả hai thứ này nơi một Âm ma (Elementary), cho dù y là người tự tử hay là một nạn nhân. Theo thông lệ thì người chết tự nhiên sẽ còn lẩn quẩn trong vòng “vài giờ cho tới nhiều năm ngắn ngủi” trong phạm vi thu hút của trần thế, nghĩa là Kāmaloka. Nhưng có trường hợp ngoại lệ là những kẻ tự tử và nói chung là những người bất đắc kỳ tử. Vì vậy cho nên một trong những Bản ngã đó có số chẳng hạn như sống tới 80 hoặc 90 tuổi - nhưng hoặc là tự tử hoặc là bất đắc kỳ tử do tai nạn giả sử như vào tuổi đôi mươi – thì y phải chuyển sang Kāmaloka không phải trong “một vài năm” mà trong trường hợp này lên tới 60 hoặc 70 năm với vai trò là một Âm ma, hoặc đúng hơn là “Kẻ lang thang trên trần thế” vì rủi thay y thậm chí vẫn còn chưa phải là một Ma hình (Shell). Để so sánh thì hạnh phúc thay, vô cùng hạnh phúc thay cho những thực thể thoát xác nào ngủ một giấc lơ mơ dài và sống lơ mơ trong lòng không gian! Và thật tai hại cho những kẻ nào mà Ái dục thu hút họ đến với các đồng cốt, và khốn thay cho người đồng cốt cám dỗ họ để có một upādāna dễ dàng như thế. Đó là vì để nắm bắt được họ và thỏa mãn được lòng khao khát sống của họ, người đồng cốt hà hơi tiếp sức phát triển nơi họ - quả thật là nguyên nhân của – một tập hợp mới các uẩn (Skandhas), một cơ thể mới với những khuynh hướng và đam mê tồi tệ hơn hẳn cơ thể mà họ đã mất. Như vậy trọn cả tương lai của cơ thể mới này sẽ được xác định chẳng những bởi Nghiệp ác báo của tập hợp hoặc nhóm uẩn trước mà còn bởi Nghiệp ác báo của tập hợp uẩn mới thuộc sinh linh tương lai. Như tôi có nói, miễn là người đồng cốt và nhà thần linh học biết được rằng mọi “thiên thần hướng dẫn” mới mà họ hoan nghênh nồng nhiệt ngất ngây thì họ đã cám dỗ vong linh này vào một Upādāna, sẽ tạo ra vô vàn điều ác cho Bản ngã mới sẽ được tái sinh dưới bóng che độc hại của nó, và cứ mỗi buổi lên đồng nhất là lên đồng để hiện hình, thì họ đã nhân bội lên những nguyên nhân khốn khổ, những nguyên nhân khiến cho Bản ngã bất hạnh thất bại trong sự giáng sinh tâm lình, tức là sẽ bị tái sinh vào kiếp tồi tệ hơn bao giờ hết thì có lẽ những người đồng cốt và thần linh học đó ắt là ít đon đả hơn với lòng hiếu khách của mình.
Việc chết yểu do những quá trình lẩn quẩn hoặc do mãi miết nghiên cứu, hoặc do tự nguyện hi sinh cho một chính nghĩa cao cả nào đó ắt tạo ra sự trì hoãn trong Kāmaloka, nhưng tình trạng của thực thể thoát xác còn tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy kết thúc sớm mạng sống của y.
Có rất ít (nếu có) những người nào sa đà vào những thói xấu này mà lại cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng một quá trình hành động như thế rốt cuộc sẽ đưa họ tới việc chết yểu. Đây là sự trừng phạt của Māyā. “Những thói xấu” ắt không thoát khỏi bị trừng phạt; nhưng người ta chỉ trừng phạt nguyên nhân chứ không trừng phạt hậu quả, nhất là một hậu quả không được tiên đoán trước hoặc dù có lẽ sẽ xảy ra. Ta gọi là một người “tự tử” khi họ phải chết khi gặp một trận bão ngoài biển, và cũng gọi như vậy đối với kẻ nào tự giết mình bằng cách “mãi miết nghiên cứu”. Nước có thể làm một người bị chết đuối và việc lao động trí óc quá nhiều có thể tạo ra sự nhũn chất não, điều này có thể khiến y thiệt mạng. Trong trường hợp như thế không ai phải băng qua Kālapāni, thậm chí cũng chẳng ai dám tắm vì sợ sẽ ngất xỉu trong đó rồi bị chết đuối (vì chúng ta đều biết có những trường hợp như thế), một người cũng chẳng làm nhiệm vụ của mình chứ đừng nói tới hi sinh bản thân cho ngay cả một chính nghĩa đáng khen và rất có lợi như nhiều người trong chúng tôi thường làm. Động cơ thúc đẩy là hết thảy mọi chuyện, và con người bị trừng phạt trong trường hợp có trách nhiệm trực tiếp chứ không phải trong trường hợp khác. Trong trường hợp nạn nhân của tai nạn thì giờ chết tự nhiên đã xảy ra trước một cách ngẫu nhiên, còn trong trường hợp người tự tử thì sự chết được thực hiện một cách tự nguyện với một tri thức trọn vẹn và cố ý về những hậu quả cấp thời của nó. Như vậy một người gây ra cái chết của mình trong một cơn điên rồ tạm thời là không hề tự sát, điều này gây rất nhiều phiền não và thường gây rắc rối cho các Công ty Bảo hiểm Nhân thọ. Y cũng chẳng bị làm mồi cho những cám dỗ trong Kāmaloka mà ngủ thiếp đi giống như bất kỳ nạn nhân nào khác.
Như vậy dân cư của Kāmaloka được tuyển mộ với một yếu tố đặc biệt nguy hiểm qua mọi hành vi bạo lực, dù hợp pháp hay bất hợp pháp, nhằm tước bỏ thể xác ra khỏi linh hồn và tống linh hồn vào Kāmaloka trong khi đang khoác lấy thể vía, phập phồng với những nhịp đập hận thù, đam mê, xúc động, hồi hộp, với những khao khát trả thù và những tham dục chưa được thỏa mãn. Một kẻ sát nhân còn đang mang xác không phải là một thành viên dễ chịu trong xã hội, nhưng một kẻ sát nhân thình lình bị trụt xuất ra khỏi xác là một thực thể còn nguy hiểm hơn nhiều; xã hội có thể tự vệ chống lại ở trường hợp đầu tiên, nhưng trong tình trạng vô minh hiện nay, nó hoàn toàn không thể tự vệ chống lại ở trường hợp thứ nhì.
Cuối cùng Tam nguyên Bất tử đã được giải thoát khỏi dục vọng và chuyển ra khỏi Kāmaloka; Thượng trí triệt thoái Tia của mình, thấm đượm những bối cảnh sống mà nó đã trải qua và mang theo mình những kinh nghiệm thu được thông qua phàm ngã mà nó đã làm linh hoạt. Người nông dân được triệu hồi ra khỏi cánh đồng, y trở về nhà mang theo bó lúa phong phú hay kém cỏi tùy theo thành quả của cuộc đời. Khi Tam nguyên cùng với Tia đã rời bỏ Kāmaloka thì nó hoàn toàn thoát ra khỏi phạm vi hấp dẫn của trái đất.
Ngay khi nó đã bước ra bên ngoài Kāmaloka – băng qua “Kim Kiều” dẫn tới “Thất Kim Sơn” – thì Chơn ngã không còn trò chuyện được nữa với những đồng cốt nhẹ dạ.
Có một số khả năng ngoại lệ đạt được tới một Chơn ngã như thế, ta sẽ giải thích điều đó sau này nhưng Chơn ngã đã ở ngoài tầm với của người đồng cốt bình thường và không thể được triệu hồi vào cõi trần thế. Nhưng trước khi ta theo dõi lộ trình tiếp theo của Tam nguyên thì ta phải xét tới số phận của thể dục vọng giờ đây đã bị vứt bỏ, bị bỏ lại chỉ là một tàn tích trong Kāmaloka.
KĀMALOKA. CÁC MA HÌNH.
Ma hình (Shell) là thế vía đã rỗng tuếch Tam nguyên và Tia vốn giờ đây đã thăng tiến rồi; Ma hình là lớp áo thứ ba trong các lớp áo phù du của Linh hồn bị vứt bỏ và bỏ lại nơi Kāmaloka để cho nó tan rã.
Khi sinh hoạt trên trần thế trong kiếp vừa qua là cao thượng, hoặc ngay cả khi nó chỉ có mức độ thanh khiết và hữu ích bình thường thì Ma hình này cũng chỉ giữ lại được một chút sinh lực sau khi Tam nguyên đã thăng tiến và Ma hình nhanh chóng bị tan rã. Tuy nhiên trong quá trình tan rã này, các phân tử của Ma hình vẫn còn giữ lại những ấn tượng tác động lên chúng trong kiếp sống trên trần thế, khuynh hướng rung động đáp ứng với những kích thích mà y thường xuyên trải qua trong thời kỳ đó. Mọi người nghiên cứu sinh lý học đều quen thuộc với điều gọi là tác động tự động với khuynh hướng của các tế bào lập lại những rung động thoạt tiên được gây nên do tác động cố ý; nhờ thế mới hình thành điều mà ta gọi là những thói quen và chúng ta vô ý thức lập lại những sự vận động mà thoạt đầu được thực hiện một cách cố ý. Sự tự động này của cơ thể mạnh mẽ đến nỗi mà mọi người đều có kinh nghiệm biết rằng thật khó dứt bỏ việc dùng một cụm từ hoặc một cử chỉ vốn đã trở thành “thói quen”.
Thế mà trong buổi sinh thời, thể vía tiếp nhận và đáp ứng với mọi kích thích từ bên ngoài và nó cũng liên tục tiếp nhận và đáp ứng với những kích thích từ Hạ trí. Nơi thể vía đã hình thành những thói quen, những khuynh hướng tự động lập lại những rung động quen thuộc, những rung động yêu thương và dục vọng, những rung động phản ánh đủ thứ kinh nghiệm thuộc quá khứ. Cũng như bàn tay có thể lập lại một cử chỉ quen thuộc, thể vía cũng có thể lập lại một xúc cảm hoặc tư tưởng quen thuộc. Và khi Tam nguyên đã bỏ thể vía lại rồi thì tính tự động này vẫn còn, vậy là Ma hình có thể bắt chước những xúc cảm và tư tưởng vốn thiếu vắng mọi sự thông tuệ và ý chí chân thực. Nhiều sự đáp ứng với những cuộc điều tra tha thiết ở các buổi lên đồng xuất phát từ những Ma hình như thế, chúng bị thu hút tới lẩn quẩn quanh thân bắng quyến thuộc do sự hấp dẫn từ điển quá quen thuộc và thân thiết từ lâu rồi; chúng tự động đáp ứng với những làn sóng xúc động và hồi tưởng, đáp ứng với lực thôi thúc mà chúng đã thường tuân theo trong kiếp sống trên trần thế vừa mới kết liễu. Những Ma hình như thế có thể giao tiếp qua những lời âu yếm, những chuyện sáo mòn về đạo đức, những kỷ niệm về các biến cố đã qua, nhưng theo sát nghĩa chúng chỉ có thể tuôn ra trong hoàn cảnh thuận lợi do những sự kích thích từ điển mà các thân bằng quyến thuộc đang mang xác phàm thoải mái cung ứng.
Trong trường hợp vào buổi sinh thời Hạ trí đã mạnh mẽ gắn bó với những sự vật thuộc vật chất và những sự theo đuổi trí thức bị điều khiển bởi một động cơ thúc đẩy tự tư tự lợi, thì thể vía thậm chí đã đạt được một sự tự động rất đáng kể có tính cách rất trí thức, và có thể trả lời với một khả năng trí thức đáng kể. Nhưng ta thấy là có dấu hiệu không mới mẻ gì cái tính cách trí thức biểu kiến đó chỉ sao chép lại và không có dấu hiệu về một tư tưởng mới mẻ và độc lập vốn phải là kết quả tất yếu của một trí thông minh sắc xảo khi đang làm việc trong một môi trường mới mẻ xung quanh. Đại đa số những lời giao tiếp của “cõi vong linh” mang nặng dấu ấn nghèo nàn về trí thức; có nhiều điều phản ánh về những phong cảnh trần tục, những tình huống trần tục và những sắp xếp trên trần thế, nhưng ta thường hoài công khi tìm kiếm những tư tưởng mới mẻ và sắc xảo xứng đáng với những Thực thể thông minh đã thoát khỏi ngục tù xác thịt. Đôi khi cũng có những thông tri thuộc loại cao siêu hơn, hầu hết là xuất phát từ những Thực thể phi nhân loại bị thu hút bởi bầu không khí thanh khiết của người đồng cốt hoặc những người tham dự buổi lên đồng.
Trong sự giao tiếp với những Ma hình này bao giờ cũng có sự nguy hiểm. Chỉ vì chúng là Ma hình chứ không có gì hơn nữa, cho nên chúng đáp ứng với những sự thôi thúc tác động lên chúng từ bên ngoài, dễ dàng trở nên độc hại có nhiều ác ý, tự động đáp ứng với những rung động độc ác. Vậy là một người đồng cốt hoặc những người tham dự buổi lên đồng mà có tư cách đạo đức tồi tệ thì sẽ gây ảnh hưởng lên những Ma hình vây xung quanh mình bằng những sự thôi thúc thuộc loại thấp kém và bất kỳ ham muốn thú tính nào, bất kỳ tư tưởng nhỏ nhen và điên rồ nào cũng lập nên những rung động tương tự nơi các Ma hình đáp ứng một cách mù quáng.
Lại nữa, Ma hình rất dễ bị các Tinh linh Ngũ hành xâm chiếm (Tinh linh Ngũ hành là những lực lượng bán hữu thức hoạt động trong các giới của Thiên nhiên); và các Tinh linh Ngũ hành có thể sử dụng Ma hình làm một công cụ thích hợp cho nhiều trò chơi khăm và bịp bợm. Thể phách của người đồng cốt và thể vía đã bị trống rỗng các Chủ nhân ông bất tử cung cấp cơ sở vật chất cho các Tinh linh ngũ hành có thể tạo ra nhiều kết quả kỳ lạ đáng ngạc nhiên; và những người lui tới buổi lên đồng có thể tin tưởng để bị thu hút và tự hỏi phải chăng nhiều trò con nít mà họ quen thuộc – kéo tóc, nhéo, vả vào miệng, ném đồ vật lung tung, chồng chất bàn ghế lên nhau, chơi phong cầm v.v. . . lại không thể được giải thích một cách hợp lý hơn thói ngông lừa gạt của những lực lượng dưới nhân loại so với tác động của những “vong linh” mà trong khi còn nhập xác chắc chắn là không thể có được những điều dung tục như thế.
Ta hãy bỏ mặc cho Ma hình bị êm thấm tan rã thành ra các yếu tố cấu thành và một lần nữa trộn lẫn lại trong cái lò của Thiên nhiên. Các tác giả của quyển Con đường Toàn bích đã trình bày rất hay tính cách chân thực của Ma hình:
“Con ma” chân thực bao gồm phần bên ngoài và trần tục của Linh hồn, cái bộ phận vẫn còn nặng trĩu những đắn đo, lưu luyến và những kỷ niệm thuần túy trần tục; nó đã bị Linh hồn vứt bỏ và vẫn còn ở lại trên cõi trung giới, sống một kiếp ít nhiều xác định của phàm ngã và thông qua một kẻ thông linh nó có thể giao tiếp với người còn sống. Tuy nhiên nó chẳng qua là lớp áo bị rũ bỏ của Linh hồn và không thể bền bỉ với vai trò là con ma. Linh hồn chân chính tức Chơn nhơn, hồn thiêng vào lúc chết đã chia tay với những tình cảm thấp thỏi như thế; những tình cảm sẽ giữ nó lại lẩn quẩn nơi cõi trần tục. (Anna Bonus Kingsford và Edward Maitland, trang 73, 74, ấn bản năm 1887).
Nếu chúng ta muốn tìm người thân thương của mình thì chúng ta không nên tìm kiếm họ trong đám những tàn tích đang tan rã trong Kāmaloka. “Tại sao chúng ta lại tìm người còn sống trong đám người đã chết?”
KĀMALOKA. CÁC ÂM MA
Từ ngữ “Âm ma” (Elementary) đã được dùng mơ hồ đến nỗi nó làm nảy sinh ra nhiều điều lẫn lộn. H. P. Blavatsky định nghĩa nó như sau:
Nói cho đúng ra thì đó là những linh hồn đã thoát xác của những kẻ đồi trụy; và một lúc nào đó trước khi chết những linh hồn này đã tách rời khỏi các chơn linh thiêng liêng, và như vậy đã mất cơ may bất tử. Nhưng ở giai đoạn đang học tập hiện nay, tốt hơn là ta nên áp dụng thuật ngữ này cho những âm ma, tức những con ma của những người đã thoát xác, nói chung là những kẻ đang tạm trú nới Kāmaloka . . . Một khi đã tách rời khỏi Tam nguyên thượng và các hiện thể của mình, những linh hồn này vẫn còn ở trong thể vía và bị thu hút không thể cưỡng nỗi về trần thế trong đám yếu tố phù hợp với bản chất thô tục của họ. Thời gian cư trú của họ nơi Kāmaloka biến thiên nhiều nhưng tất yếu là sẽ kết thúc trong sự phân ly, tan rã giống như một cột sương mù, từng nguyên tử một tan rã thành những yếu tố bao xung quanh (Chú giải Thuật ngữ Thông Thiên Học, mục từ Âm ma, ấn bản 1892, được ấn hành sau khi tác giả mất do G. R. S. Mead biên tập).
Những người nghiên cứu loạt Cẩm nang này ắt biết rằng Hạ trí có thể vướng mắc với Kāma đến nỗi bị xé toạc ra khỏi cội nguồn của mình và Huyền bí học gọi điều này là “mất linh hồn” (Xem Bảy Nguyên Khí Của Con Người trang 44, 46). Nói cách khác chính phàm ngã đã bị mất vì nó đã cắt đứt với Cha của mình là Chơn ngã, và như vậy số phận của nó phải bị diệt vong. Một Linh hồn như thế, vì đã cắt đứt liên hệ với Tam nguyên Bất tử trong buổi sinh thời, cho nên trở thành một Âm ma đúng nghĩa sau khi nó bỏ lại xác phàm và thể phách. Lúc bấy giờ y ở trong thể vía, nó sống còn được một thời gian dài hay ngắn tùy theo sự sung sức của sinh lực, đó là một điều hoàn toàn tàn ác, nguy hiểm và độc hại, ra sức phục hồi lại sinh lực đang mòn mỏi của mình bằng bất cứ phương tiện nào mở ra cho mình do sự điên rồ hoặc vô minh của những linh hồn vẫn còn mang xác phàm. Số phận tối hậu của nó quả thật là bị hủy diệt nhưng nó có thể gây nhiều điều ác trong bước đường đi tới sự đọa đày mà mình tự ý chọn lựa.
Tuy nhiên, từ ngữ Âm ma rất thường được dùng để mô tả Hạ trí ở trong lớp vỏ là thể vía chưa cắt đứt quan hệ với các Nguyên khí cao nhưng cũng chưa được hấp thụ vào với Cha của mình là Thượng trí. Những Âm ma như thế có thể ở bất kỳ trình độ tiến bộ nào từ vô hại đến đầy ác ý.
Một số tác giả lại dùng từ Âm ma (Elementary) là đồng nghĩa với Ma hình (Shell) và như vậy gây ra thêm sự lẫn lộn. Từ này ít ra cũng bị hạn chế vào thể vía cộng với Hạ trí, cho dù Hạ trí có tháo gỡ ra khỏi những yếu tố dục vọng để cho nó có thể được tái hấp thụ vào cội nguồn của mình hay là Hạ trí sẽ cắt đứt quan hệ với Chơn ngã và do đó trên đường đi tới sự hủy diệt.
Về Đầu Trang Go down
 
KĀMALOKA, CÕI DỤC VỌNG VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ HAM MUỐN
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Những phản ứng khi luyện công và những điều cần lưu ý
» Phân biệt và vọng thức
» ĐẠO VUỐT TRỪ TÀ: SỰ THẤT VỌNG CỦA "CON MA"
» Tìm hiểu Thôi Miên và Áp Vong.
» Tôi muốn mua sách mới của trang Huyền bí học thi làm cách nào mua được?

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ TÂM LINH - NGOẠI CẢM - HUYỀN BÍ HỌC - HUYỀN THUẬT . :: HUYỀN BÍ HỌC-
Chuyển đến