Bây giờ chúng ta thử áp dụng chìa khóa ấy đối với kinh thánh Thiên Chúa Giáo.
Những núi non là trạng thái tâm thức, tuy ở hồng trần nhưng được nâng lên một mực độ cao. Thí dụ như ông Môi sen nhận được Mười điều răn ở trên núi, Đức Chúa giảng Đạo và đạt được sự hợp nhứt tinh thần cũng ở trên núi. Những cánh đồng bằng tượng trưng tâm thức vừa chớm nở và những thung lũng là trạng thái của hạ trí. Vườn tược, ruộng lúa chỉ tỏ kết quả về tinh thần hay sự bước qua giai đoạn mới trên con đường tinh thần. Thí dụ như sự tích của vườn thiên đàng là mở đầu kỷ nguyên mới của sự tiến hóa nhơn loại.
Sa mạc và cảnh hoang vu, là trạng thái khô khan của tư tưởng, khi lý tưởng của mình bị lung lạc và ước vọng cao cả của mình gần biến mất.
Những thú vật cũng có ý nghĩa tượng trưng những dục vọng. Sư tử, hổ báo là sự ham muốn, mê say vật chất, mà những ai muốn tiến mau trên đường Đạo đều sẽ phải đối phó, đối phó riêng một mình và phải thắng chúng nó. Sự thắng trận nầy không có nghĩa diệt những dục vọng mà làm cho nó trở thành những sức mạnh hướng về tinh thần.
Chúng ta có một thí dụ ở ông Samson, là người có sức mạnh vô song, khi đi trên đường Đạo, đã phải giáp chiến với sư tử và giết nó với tay không (nghĩa là không có sự giúp đỡ bên ngoài).
Nước, như đã nói, tượng trưng cho giới tình cảm và cảm tưởng của con người; còn rượu nghĩa là nước biến thể, thì tượng trưng Trực giác và sự Minh triết.
Con cá tượng trưng cho tâm thức của Chúa, cho sự Minh triết và lòng Bác ái. Từ cổ thời, trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo, người ta đã dùng con cá để tượng trưng tâm thức siêu việt đó.
Con chim bay trên không khí tượng trưng cho tinh thần cao hơn cõi vật chất và nó cũng tượng trưng cho sự hiện diện của Thiêng liêng.
Lửa là biểu tượng cho sự lau chau của cái trí hay cái lý luận của hạ trí làm chơn lý khó hiện ra được. Nó cũng để chỉ sức mạnh thiêng liêng trong con người và trong võ trụ. Những cây, những cột là tượng trưng đường xương sống mà trong đó có luồng hỏa xà và khi con rắn quấn thân cây có nghĩa là luồng hỏa xà được khơi dậy và con người sẽ có được sự Minh triết và quyền năng.
Hôn nhơn là sự phối hợp giữa Phàm nhơn với Chơn nhơn và về sau là sự phối hợp với Chơn thần. Trong thánh kinh có kể truyện rằng : một hôm kia đấng Christ đi dự một lễ cưới tại thành Cana. Lúc đó không có rượu uống và Ngài làm cho nước hóa thành rượu. Điều nầy có nghĩa rằng : khi Chơn nhơn nhập làm một với Phàm nhơn (tượng trưng bởi sự hôn nhơn), tình cảm (nghĩa là nước) trở thành trực giác (là rượu).
Còn chuyện Đức Chúa làm bão tố yên lặng là một chuyện tượng trưng rất sâu xa mà phương pháp dùng để diễn tả thật là khéo léo. Câu chuyện ấy như sau : Các vị đệ tử giương buồm cho thuyền ra khơi biển hồ Galilée. Những người nầy điều khiển chiếc thuyền trong khi Đức Thầy đang theo họ thì nằm ngủ. Mọi việc đều suông sẻ cho đến lúc một cơn bão tố nổi lên. Lúc ấy các vị đệ tử hoảng hốt đánh thức Ngài dậy, và Ngài, với quyền năng mình, làm bão tố dịu xuống bằng cách nói : “Hãy lặng yên”.
Trong bài nầy có dùng nhiều biểu tượng. Câu chuyện xảy ra trên nước có nghĩa để nói đến những tình cảm trong con người. Chiếc thuyền tượng trưng cho thể xác giữ trong mình cái linh hồn để trải qua những lượn sóng của hồng trần.
Những vị đệ tử tượng trưng những đặc tánh của con người, tỷ như sự cương trực của tông đồ Pierre; sự đơn giản của tông đồ Jacques; sự tháo vát của tông đồ Mathieu; lòng thương trung thành của tông đồ Jean; chỉ có vị đệ tử nầy có mặt trong khi Đức Christ bị xử án và bị đóng đinh trên thập tự giá. Tất cả những tánh nầy đều có trong con người kể cả Juda bán Chúa, một hai khi cám dỗ ta từ bỏ sự thiêng liêng trong lòng ta. Nhưng trong tất cả chúng ta đều có Chúa ngự.
Khi sự sống khởi đầu (nghĩa là cuộc hành trình mới diễn ra), thì Chúa hay là Thượng Đế trong lòng ta chưa thức tỉnh, cho đến khi những cơn ba đào của đời sống, những cơn gió lốc của ham muốn, giận hờn, oán ghét, ganh tị, quỉ quyệt làm sự an toàn của linh hồn bị rung chuyển. Lúc ấy chúng ta phải hành động thế nào ? Chúng ta phải làm như các đệ tử. Chúng ta phải hướng về bên trong tìm sự thiêng liêng, tìm Chúa trong lòng ta, kêu Người dậy, đánh thức Người dậy. Và nhờ ảnh hưởng cao quí và phi thường của Ngài mà chúng ta mạnh dạn đối phó lại phàm nhơn của chúng ta và chúng ta chắc chắn khắc phục được nó bằng cách bảo chúng nó “Hãy lặng yên”.
Cái giá trị của những cơn bão tố đó cũng được chỉ rõ, vì nếu không có những cơn thử thách, những trận bão lòng chưa chắc chúng ta chịu hướng về thiêng liêng để tìm phương cứu cánh ! Và Thượng Đế trong lòng ta vẫn còn say ngủ. Vậy những sự đau khổ, những lúc khó khăn, cũng là những kinh nghiệm giúp chúng ta mau tiến trên đường tiến hóa. Nếu chúng ta biết cách khêu gợi và sử dụng trực giác, thì chúng ta có thể đối phó những sự khó khăn ở đời một cách dễ dàng.
Trong kinh thánh Thiên Chúa Giáo cũng còn kể : Những người có bịnh nan y, nhưng khi được đến gần Chúa, chạm đến áo của Ngài thì bịnh liền hết. Những người mù lòa, những người chết (nghĩa là ở cảnh đen tối) cũng được Chúa làm sáng mắt, sống dậy. Đức Geoffrey Hodson không phủ nhận quyền năng của Chúa có thể làm cho người đau lành bịnh, làm kẻ chết sống dậy, nhưng muốn chỉ rõ điều nầy : trong mỗi một người đều có phần thiêng liêng : đó là Thiên tánh hay Phật tánh mà khi chúng ta kêu gọi đến thì những sự khó khăn bên ngoài bị dẹp yên. Và Đức Hodson cũng có nói : sự chết ở tâm hồn, sự mù lòa ở trí não còn nguy hại hơn sự chết và sự mù lòa ở xác thân.
Và đây tôi xin kể một câu chuyện chót. Hôm kia, ở trên một đỉnh núi cao, có trên 5 – 6 ngàn người tụ họp xung quanh Đấng Christ đã từ 3 – 4 ngày. Người thì đến nghe thuyết đạo, kẻ thì để được lành bịnh. Có nhiều người từ những xứ xa đến. Trước khi để những người ấy từ giả ra về, Ngài liền bảo các môn đệ Ngài cho những người ấy ăn uống. Các môn đệ bạch rằng : “Thưa Thầy, chúng con chỉ có một ít bánh mì và vài con cá nhỏ thì làm sao cho các người nầy dùng đủ ?” Đấng Christ liền truyền đem những thức ăn ấy lại cho Ngài và sau khi cầu nguyện đến Chúa Cha, liền bảo các môn đệ đi phát những thức ăn ấy. Những thức ăn ấy mỗi khi phát ra thì lại nẩy sanh cái khác. Và khi mọi người ăn no đầy đủ, thì thức ăn còn lại đựng được bảy giỏ đầy.
Câu chuyện nầy xảy ra trên núi chỉ nghĩa trạng thái của Bồ đề tâm, và những con cá tượng trưng cho lòng Bác ái và sự Minh triết. Chúng ta có thể hiểu thêm chuyện nầy như sau : lòng Bái ái, sự Minh triết rất cần thiết cho đời sống tinh thần và hằng ngày của chúng ta. Những điều nầy có trong lòng chúng ta. Chúng ta cần khêu gợi nó lên, làm nó phát triển rộng rãi hơn. Và cũng như trong câu chuyện, thứ cá nầy là thức ăn cần thiết, nhưng càng chia sẻ cho người khác thì chẳng những không hao hụt đi mà nó càng gia bội một cách nhiệm mầu.
Với tinh thần Thông Thiên Học, tôi thuyết trình những điều trên đây để quí độc giả khảo xét và thử áp dụng phương pháp nầy để tìm hiểu Đạo lý ẩn vi trong các Kinh Thánh.
(Viết theo tài liệu trong quyển The Hidden Wisdom in Christian Scriptures của ông Geoffrey Hodson).
FRANÇOIS MYLNE.
(Trích trong Tạp chí Tìm hiểu Thông Thiên Học số 71 và 72 tháng 5 và 6 năm 1960.)
http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20su%20mt%20v%20a%20trong%20thanh%20kinh%20tcgiao.htm