CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 VÕ BÌNH ĐỊNH

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:41 am


VÕ BÌNH ĐỊNH

Đất võ


Âm vang những hồi trống trận hào hùng của đoàn quân nghĩa dũng Tây Sơn một thời lừng lẫy với những cuộc hành binh thần tốc, những trận đánh dữ dội mà chớp nhoáng, tốc chiến tốc thắng... gắn liền với tên tuổi bất diệt của Quang Trung - Nguyễn Huệ, cho đến nay vẫn còn bàng bạc trong tâm tưởng người Bình Định. Vâng, chính võ thuật là một trong những nhân tố làm nên kỳ tích Tây Sơn. Pháp dụng binh lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh; Thủ để công, công để thủ ; lấy tĩnh chế động, lấy động khắc tĩnh; cương nhu phối hợp; vững vàng, biến hóa thần tốc, bất ngờ... của Quang Trung cũng chính là những nguyên tắc cốt lõi của võ thuật Tây Sơn. Chính Nguyễn Huệ là người có công đưa nền võ thuật Tây Sơn - Bình Định lên đến đỉnh cao chói lọi, đưa võ thuật vào cuộc sống chiến đấu chống ngoại xâm, thống nhất đất nước. Và nếu chỉ lấy cái mốc từ thời Tây Sơn thì đến nay cái tên gọi "Đất võ" đã gắn liền với vùng đất địa linh nhân kiệt, biển núi trùng trùng này ngót trên 200 năm. Từ đó không phải ngẫu nhiên mà câu ca dao:

Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền

đã phổ biến khắp đất nước và trở thành tiêu biểu cho một địa phương mà từ hình sông dáng núi đến con người đều mang âm hưởng của tinh thần thượng võ, bắt nguồn từ Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Đô đốc Long, Đô đốc Tuyết...

Muốn làm tàn lụi một dòng họ oai hùng, một dòng võ "Đối nghịch". Nhà Nguyễn - Gia Long, cấm lưu truyền và phổ biến võ thuật Tây Sơn, đặc biệt là các môn binh khí Tây Sơn. Nhưng làm sao cấm hẳn được khi mà lòng người mãi còn lưu luyến triều đại sáng ngời tinh thần dân tộc tự cường. Người Bình Định dưới triều Nguyễn thờ nhà Tây Sơn trong tận cùng sâu thẳm trong tâm hồn mình và lưu truyền, kế thừa phát triển võ thuật Tây Sơn trong giòng họ. Bằng cách này cách khác, bộ môn võ cổ truyền của đất võ Tây Sơn vẫn sống mạnh mẽ từ đời này sang đời khác để rồi thăng hoa thành một trong hai loại đặc sản văn hoá (võ thuật và hát bội) của Bình Định hôm nay. Chỉ tiếc rằng trong một thời gian quá dài bị cấm đoán nên nhiều miếng tuyệt chiêu đã bị thất truyền hoặc "tam sao thất bổn".

Có lẽ bất kỳ một người Bình Định nào cũng có thề kể lại một vài truyền thuyết thật đẹp về võ thuật, về tên tuổi của dăm vị võ sư nổi tiếng. Thời gian không còn lại nhưng vẫn còn đó những tên tuổi vang bóng một thời trong một quá khứ gần lưu truyền trong ký ức đậm nét hào hùng của làng võ Bình Định. Những cái tên mộc mạc, chân chất gắn liền với rặng tre, đồng lúa, bãi mía, nương dâu nằm sát biển Đông và giữa ba đèo (Cù Mông, An Khê, Bình Đê): Hồ Ngạnh, Tàu Sáu, Ấm Hổ, Hương mục Ngạc, Vương Kiến Mỹ, Hương kiểm Lài, Xã Hào, Năm Nghĩa, Đoàn Phong, Chín Giác, Mười Đậu, Hai Tửu, Năm Hà, Tám Cảng, Hai Tòng... Kể sao xiết những tên tuổi được tô đậm bằng bản lĩnh võ nghệ đã trở thành quen thuộc với người Bình Định từ đầu nguồn sông Côn đến cuối dòng sông Lại rợp bóng dừa xanh. Có những lão sư hiên nay đã trên thất thập vẫn còn cống hiến hết sức mình cho võ thuật như: Hà Trọng Sơn, Phan Thọ, Đặng Vĩnh Nghê... Có nhiều võ sư đang "hành võ" trên quê hương mình như Kim Đình, Đinh Văn Tuấn, Hà Trọng Nghị, Lý Xuân Hỷ... và cũng có nhiều võ sư đang phổ biến bộ môn võ Tây Sơn - Bình Định ở khắp nơi trong nước, kể cả nước ngoài. Làng võ cả nước có thể nào quên được cố võ sư Kim Dũng - người đã một "mình một ngựa" dong ruổi khắp mọi nơi trên đất Bình Định để làm công tác phong trào, góp dức khơi dòng mạch võ Tây Sơn. Tiếc rằng anh "ra đi" quá sớm, ngay khi đang làm nhiệm vụ trên đất võ đài toàn quốc. Những người yêu mến bình luận rằng cái chết của võ sư Kim Dũng là một cái chết đẹp là vì vậy. Tất cả, kẻ mất, người còn, kể cả các võ sư chưa có điều kiện nêu tên trong bài báo này vì trang báo có hạn đều góp phần mài bóng thêm cái tên ĐẤT VÕ!

Nhiều người cho rằng, đến Bình Định mà chưa thăm Bảo tàng Quang Trung thì chưa hiểu biết về "đất võ". Ngoài việc tham quan những di tích , di vật lịch sử ở nhà bảo tàng mang tầm vóc quốc gia được đặt ngay trên khu vườn nhà "Tây Sơn tam kiệt" ngày xưa, mời bạn dừng chân lại dưới gốc me già - chứng tích tồn tại gần 300 năm, để xem đội võ nhạc của nhà bảo tàng biểu diễn những bài võ Tây Sơn điêu luyện, hiểm hóc nhưng không kém phần hoa mỹ. Chắc chắn bạn sẽ cảm nhận rõ ràng hơn về cấu ca "... Con gái Bình Định múa roi đi quyền". Về Bình Định, đêm dừng chân trên bãi cát sông Côn lồng lộng ánh trăng, soi bóng thành Hoàng đế và những ngôi tháp cổ trầm mặc, bên ly rượu Bàu Đá nồng nàn tình bằng hữu, vừa xem những chàng trai, cô gái Bình Định luyện võ, khách lãng du sẽ được nghe lại những huyền thoại hoành tráng và ăm ắp tinh thần thượng võ. Chuyện về cố võ sư Hồ Ngạnh với ngọn roi bí truyền vang danh Roi Thuận Truyền, quyền An Dinh, hoặc chuyện nữ võ sư Tám Cảng một mình chiến đấu với vài chục trai làng trong ngày hội "Đổ giàn" năm xưa. Nếu còn thời gian lưu lại, xin mời bạn đến chùa Long Phước - ngôi chùa được xem như là một "Thiếu Lâm Tự" của Việt Nam. Ngồi dưới tán lá vú sữa rợp bóng mát, bên ly nước dừa ngọt ngào tình quê, bạn sẽ được thưởng thức những môn võ nhà chùa độc đáo và hấp dẫn. Chắc rằng khi chia tay "đất võ" bạn sẽ lưu giữ những ấn tượng khó phai mờ.

5 năm trở lại đây, võ Bình Định có phần "lặng tiếng"trên võ đài quốc gia. Còn đối với người dân "đất võ" thì truyền thống võ Tây Sơn - Bình Định vẫn được lưu truyền, kế thừa và phát triển mạnh mẽ trong nhiều gia đình, giòng tộc, trong gần 200 võ đường rải rác khắp toàn tỉnh với phương châm gìn giữ truyền thống tốt đẹp của địa phương, góp phần làm phong phú thêm các giòng võ Việt Nam, rèn luyện thân thể, khoẻ để phụng sự tổ quốc. Bao giờ cũng vậy, nền võ học Tây Sơn - Bình Định luôn hội đủ các yếu tố đồng nhất: võ lý, võ thuật, võ đức và võ đạo./.

Qui Nhơn mạnh đông Bính Tý
N.V
Võ Tây Sơn - Bình Định


Tây Sơn - Bình Định là một địa danh Võ thuật của cả nước, và còn lan rộng ra cả nước ngoài vì võ Tây Sơn - Bình Định mang dáng dấp dòng võ cổ truyền dân tộc :

“Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bịnh Định cầm roi đi quyền”

Điều này đã nói lên, người Bình Định ai cũng biết đánh võ. Võ thời trước mang tính chất sát phạt, thể hiện ở các đòn thế hiểm hóc. Võ sĩ thách đấu và thủ đài sẵn sàng gặp bất cứ võ sĩ, võ sư nào không phân biệt tuổi tác, giới tính, hễ ai hạ được là chiến thắng. Võ lúc ấy chưa hình thành bài bản như ngày nay không mang tính chất biểu diễn và ít có võ đường. Dòng, phái truyền cho nhau là chính. Vì thế nó mang tính chất đặc thù của mỗi dòng, phái, có sự truyền bí và mai danh ẩn tích khoe khoang. Tinh thần thượng võ rất cao và không hạ thủ khi đối phương đầu hàng.

Ngày trước, hàng năm thường tổ chức ngày hội “Để giàng” trên đài cao có đặt một con heo quay; trai gái tranh nhau bằng mưu lược võ nghệ làm sao giành được heo đem về làng mình. Từ đó chúng ta thấy rằng Võ Bình Định đã ra đời sớm, quy tụ những võ sư tài giỏi mọi miền về đây và hình thành các môn phái, sáng tạo những bài quyền, bài kiếm, bài roi độc đáo...

Thường thường trước khi học võ phải học văn vì biết võ mà không biết văn là võ biền, biết võ mà không lễ nghĩa đạo đức sẽ trở thành vô dụng, cường bạo. Do đó, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín là những quy pháp trong võ đạo.

Quang Trung - Nguyễn Huệ là người đã tinh lọc những tinh hoa độc đáo của các dòng võ khác sáng tạo nên dòng võ Tây Sơn - Bình Định với những đặc điểm sau:

1/ Tính dân tộc:
Võ Tây Sơn - Bình Định nghiên cứu khá công phu với sự chọn lọc các môn võ khác kinh qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước. Trong các chiến công của Quang Trung, người ta nhận thấy võ thuật và binh pháp đã đóng một phần hết sức quan trọng. Các đòn thế võ Tây Sơn rất hiểm hóc. Ra đòn nhanh, biến hoá nhanh, lấy thủ làm công lấy công giữ thủ song toàn, hư thực khó phân minh làm cho đối phương khó bề chống đỡ. Cấu tạo một bài quyền, bài thảo rất đơn giản nhưng rất chặt chẽ và sắc bén có sự hoạt động toàn thân, mang màu sắc dân tộc, không pha tạp lai căng. Ví dụ: Bài Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ. Qua nhiều lần xem đá gà, giữa gà chọi to lớn và gà trống bé hơn, ông thấy rằng gà chọi ỷ to cao đã ra đòn phủ đầu đối phương, nhưng chú gà trống đã nhanh nhẹn né tránh, thỉnh thoảng trả đòn cắn vào diều gà chọi và núp vào cánh đối phương để bất thần đá những cú hiểm vào gà chọi, chủ yếu lấy nhu để thắng cương. Và từ đó ông rút ra những đòn thế hay nhất sáng tạo bài Hùng kê quyền lưu lại sau này.

Một ví dụ khác như bài “Song Phượng Kiếm” của Bà Bùi Thị Xuân. Hàng ngày bà cùng dân tập luyện ở thao trường bên núi. Buổi tập nào bà cũng thấy một đôi chim phượng đậu trên cành cây đùa nhau, bay lượn xem bà tập. Từ đó hằng đêm bà cố mô phỏng động tác bay lượn, đùa nhau của đôi chim phượng mà soạn và tập bài kiếm có tên Song Phượng Kiếm.

Bài kiếm này mới tìm được trong tập sách “Tây Sơn danh tướng mộ hồn thao” do tướng Nguyễn Trung Như thời Tây Sơn sáng tác . Tài liệu này do thầy Hạnh Hoà ở chùa Long Phước ( xã Phước Sơn, Huyện Tuy Phước Bình Định) cung cấp.

2/ Tính truyền thống:
Võ Tây Sơn- Bình Định đã được hệ thống hoá các bài và truyền lại như bài quyền Thiền sư, Ngọc Trân, roi Ngũ Môn, trực chỉ, kiếm Mai Hoa... Hầu hết dân Bình Định đều biết võ, biết để tự vệ không mang tính biểu diễn như ngày nay, nên võ thể hiện khá rõ nét tính quần chúng. Họ truyền cho nhau trong cha con, chồng vợ, anh em, cho người thân trong thôn xóm bản ấp; thậm chí những bài võ từ thời xa xưa vẫn còn được lưu truyền. Phương pháp truyền dạy vẫn giữ truyền thống võ đạo xưa. Những điều nên làm, những điều cấm đối với môn sinh vẫn giữ nguyên. Kính tổ, trọng thầy, mến bạn là ba điều tâm niệm chính.

3/ Tính đa dạng và liên hoàn:
Nội dung võ Tây Sơn - Bình Đinh rất đa dạng và phong phú trong việc sử dụng 18 ban binh khí. Mỗi một đòn thế, một bài thảo, bài roi hay bài quyền đều có sự liên hoàn, trước sau và kết thúc trọn vẹn, kết hợp hài hào giữa yếu và mạnh, nhanh và chậm, tấn và thủ, thể hịên trí thức trong võ thuật, vì vậy bắt buộc văn võ phải song toàn.

Võ Tây Sơn - Bình Định rất đa dạng và phong phú, các đòn thế rõ ràng đơn giản nhưng tầm sát hạch hữu hiệu, bộ tay và chân phối hợp liên hoàn, không sơ hở. Ba môn phái tiêu biểu là Thuận Truyền, An Thái, An Vinh và một số võ đường lấy tên một số võ sư đại diện cho môn phái.

Đến với võ Tây Sơn-Bình Định là đến với dòng võ mang tính dân tộc thuần tuý. Dù có trải qua thời gian dài của lịch sử và nhiều thay đổi nhưng võ Tây Sơn - Bình Định vẫn giữ nguyên truyền thống, giá trị và bản sắc của nó.
Cơ sở lý luận và kỹ thuật cơ bản của võ cổ truyền Bình Định
Bình Định là một địa danh của võ nghệ. Võ cổ truyền Bình Định với nội dung nhiều, đa dạng và phong phú. Trên cơ sở võ Tây Sơn đã tập hợp, hệ thống, tinh gọn, và rút tỉa những tinh hoa võ "đằng ngoài", chọn lọc đúc kết võ "đằng trong", vận dụng uyển chuyển võ Trung Hoa "Thiếu lâm tự", kết hợp với các dòng võ tại bản địa mà xây dựng lên thành dòng võ độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc - Võ cổ truyền Bình Định.
Võ cổ truyền Bình Định có một nền võ học hoàn chỉnh, bao gồm võ lý, võ đạo, võ thuật và thể hiện một số đặc điểm độc đáo của riêng mình "Nhất nhanh, nhì lẹ, ba giỏi", đòn đánh hiểm hóc, biến hóa linh hoạt, đánh dứt điểm nhanh chóng, có thể lực tốt, phản ứng nhạy bén và trình độ kỹ thuật cao. Ngoài ra, võ cổ truyền còn thể hiện một số đặc trưng mang tính chất quần chúng, tính khoa học và tính chiến đấu.
"Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền"
"Ai về Bình Định mà coi" không phải là lời thách đố mà là lời mời chào thân tình. Người dân Bình Định hiền hòa, khoan dung, mến khách, rất muốn người mọi miền của đất nước về thăm quê mình, xem Bình Định có phải là "Miền đất võ" hay không?
Võ nghệ thời Tây Sơn là thời hưng thịnh nhất. Thời đó mọi người dân đua nhau đi học võ để tự vệ bản thân chống lại mọi loài thú dữ ở chốn núi từng hoang dã, rừng thiêng nước độc. Võ là giấy thông hành để giao lưu với các vùng phụ cận, để chống lại bọn cướp đường và bọn lâm tặc. Một điều quan trọng nữa là biết học võ để mong muốn được vào đầu quân phong trào nghĩa quân Tây Sơn.
Nguyễn Huệ không những là một anh hùng kiệt xuất mà còn là một nhà võ lỗi lạc, người đã vận dụng sáng tạo đưa võ nghệ vào huấn luyện quân đội, xây dựng quân đội bách chiến, bách thắng, tinh thông võ nghệ, có kỷ luật nghiêm minh và có tinh thần chiến đấu cao.
"Con gái Bình Định cầm roi đi quyền", con gái mà đã biết đánh võ thì những lớp người khác lại càng giỏi võ hơn, đa số người dân Bình Định từ già đến trẻ, gái trai, ai ai cũng biết võ.
"Cầm roi đi quyền" điều này nói lên người dân Bình Định biết nhiều môn võ khác nhau như roi, quyền, côn, kiếm... qua đây cũng nói lên nội dung võ thuật Bình Định bao gồm nhiều môn đa dạng và phong phú. "Cầm" mang nghĩa thách đấu, cầm thử xem đánh môn này, rồi đánh môn khác tiếp theo.
"Roi tiền quyền tiếp". Đánh roi trước rồi đánh quyền tiếp theo. Điều này cũng nói lên người dân Bình Định không những biết võ mà biết nhiều môn võ khác nhau.
Hai câu ca dao trên thể hiện tính quần chúng rộng rãi của võ cổ truyền Bình Định và là đặc trưng nổi bật của nó. Người dân Bình Định rất tự hào được mang tên "Miền đất võ".
Họ học võ để nâng cao thể lực sức khỏe để phục vụ cho sản xuất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp, để chiến đấu chống ngoại xâm, giữ gìn giang sơn gấm vóc, bờ cõi của Tổ quốc, đảm bảo cuộc sống yên lành của người dân, mặc khác giữ gìn một di sản văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Như chúng ta đã biết qua bao giai đoạn lịch sử, có nhiều biến cố thay đổi thì võ nghệ cũng có nhiều thay đổi nhất định. Đặc biệt là thời sau của nhà Tây Sơn, với âm mưu tiêu diệt tất cả mọi di sản do nhà Tây Sơn lập nên của nhà Nguyễn Gia Miêu, trong đó có võ nghệ. Nhưng với truyền thống thượng võ, nhân dân Bình Định vẫn ngấm ngầm giữ gìn, bảo vệ và lưu truyền võ Tây Sơn Bình Định cho đến ngày nay.
Võ cổ truyền Bình Định không có trường lớp đào tạo quy mô, không ồn ào phô trương, mà âm thầm ẩn dật, truyền dạy theo môn phái gia truyền. Trong gia đình cha dạy cho con, chồng dạy cho vợ, anh dạy cho em. Trong xóm làng truyền dạy cho nhau người trong gia tộc và môn phái. Họ truyền dạy cho nhau những bài võ cổ truyền từ thời xa xưa của môn phái, gia tộc lưu giữ từ đời này sang đời khác. Điều này nói lên tính kế thừa rất đậm nét.
Võ Bình Định ngày càng phát triển rộng rãi, ngày càng bổ sung và hoàn chỉnh. Cho nên các môn phái cũng đua nhau cải tiến phương pháp và bổ sung nội dung để đáp ứng yêu cầu thực tế của xã hội, nhưng vẫn giữ được những đòn thế bí truyền của môn phái như "Roi Thuận Truyền" - tiêu biểu ngọn roi bí truyền của Hồ Ngạnh. Trong một lần thi đấu roi với cựu vô địch "Sơn đông mãi võ" thuộc nhóm võ sĩ người Trung Hoa, trong lúc thi đấu roi của Hồ Ngạnh bị chặt gãy làm đôi. Tức là nhờ đối phương vót hộ ngọn roi thành mũi lao nhọn sắt, rồi bằng một thế võ độc đáo "ưng trảo quyền" đã đoạt được trường đao của đối phương, khẳng định danh hiệu "Danh bất hư truyền" của Hồ Ngạnh.
Bài roi Ngũ Môn phá trận và bài Mai Hoa kiếm pháp là hai môn gia truyền của võ sư nổi tiếng Hà Trọng Sơn.
Ở trường phái quyền An Vinh ngoài môn phái Hương Mục Ngạc, còn có võ sư Mười Đậu truyền dạy cho võ sư Mười Mỹ ở Trường Úc, huyện Tuy Phước. Ngoài những bài võ, đòn thế võ, còn chú tâm truyền dạy các bộ pháp cơ bản như: Nhãn pháp, khí pháp, tâm pháp, chỉ pháp, thủ pháp và tấn pháp theo học thuyết "Âm dương". Mỗi võ phái đều lấy các bộ pháp cơ bản làm một nội dung gia truyền của môn phái mình.
(còn tiếp)
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
III- Võ cổ truyền Bình Định dựa vào cơ sở lý luận võ nghệ thời Tây Sơn để hoàn thành nền võ học của mình
Võ Tây Sơn là một dòng võ đa dạng. Tổng hợp bao gồm: Võ đằng ngoài "miền Bắc" võ đằng trong "miền Nam"; võ bản địa và võ Trung Hoa.
Nguyễn Huệ đã rút tỉa, tinh lọc và hệ thống những tinh hoa, những cái hay, cái độc đáo để xây dựng lên dòng võ riêng mình - Tây Sơn võ đạo; theo nguyên lý võ học bao gồm: Võ lý võ đạo và võ thuật. Ông đã xây dựng một nền võ lý tưởng để áp dụng vào thực tế học và dạy võ. Nguyên lý biên soạn một bài võ nhất thiết phải bao gồm hai phần. Một là lời thiệu (bằng chữ Hán nôm và chữ Việt) thường theo thể thơ lục bát, hay tứ tuyệt... Mỗi một câu thiệu chứa đựng một số động tác và đòn thế.
Phần động tác có mở đầu (thường là động tác bái tổ bao gồm 4-5 động tác; có kết thúc hoàn chỉnh. Ông đưa nguyên tắc: Nhỏ có thể đánh lớn; yếu có thể đánh mạnh... của Nguyễn Lữ, vào khi biên soạn một bài võ phần kết cấu bài võ gồm: động tác cương nhu kết hợp, các đòn công thủ rõ ràng và nhịp độ nhanh chậm khác nhau. Một đặc điểm nổi bật là các bài võ Tây Sơn đều mang tính chất chiến đấu cao (cận chiến) gồm: quyền tay không, quyền với binh khí. Trong đó có loại binh khí thô sơ như: dao, kiếm, cung tên, roi, thương, đao... và có những binh khí gây tác hại như: Rồng phun lửa (Hỏa Long), cây lao (chữ Hán gọi là phiên). Lao là một loạt giáo dài, cán làm bằng tre hay bằng gỗ, một đầu nhọn có buộc thêm vào các đoạn dây xích hoặc thép uốn cong như các lưỡi câu làm tăng thêm tác hại.
Nguyễn Huệ cũng đề ra nguyên lý là: khi sử dụng võ chiến đấu trên tất cả mọi địa hình đại thế như: Đồng bằng, rừng núi và đô thị, đánh đến cùng, đánh nhanh thắng nhanh, đánh không được bỏ chạy, cho dù tình thế hiểm nghèo, kẻ thù đông và mạnh. Đánh cận chiến để nhanh chóng tiêu diệt kẻ thù.
Nguyễn Huệ thường nói: Học văn mà không biết võ là nhu nhược. Trái lại giỏi võ mà không biết văn là võ rừng trở thành cường bạo. Biết võ không chỉ biết thực hành mà phải nắm vững võ lý. Văn võ song toàn.
Nguyễn Huệ giỏi về thương và kiếm. Nguyễn Lữ giỏi về quyền nhất là "Nhu quyền". Vùng đất Tây Sơn lúc bấy giờ rất nhiều người giỏi võ với nhiều môn phái khác nhau, không ai chịu ai. Nguyễn Huệ đã sử dụng tài ba võ nghệ của mình, đã thu phục được nhiều tướng tài giỏi võ nghệ như: Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Võ Văn Dũng...
Đầu tiên là tự tập để đạt được những tư thế, động tác riêng biệt chính xác, rồi sáng tạo áp dụng những phương pháp luyện tập cơ bản kể trên. Rồi đến thực hiện trên những hiện trường gần như trận địa chiến đấu thật. Đây là phần rất quan trọng nhất của võ Tây Sơn. Những võ sinh đặt mình trong những điều kiện phức tạp như trận chiến thật cho quen.
IV- Võ cổ truyền Bình Định dựa vào các tư liệu, gia phả của các môn phái và gia tộc để làm cơ sở lý luận cho dòng võ mình.
Ở Bình Định mỗi một môn phái đều có đặc điểm riêng của môn phái mình. Có bàn thờ sư tổ, có quy định tuyển chọn môn sinh và có các điều cấm với môn sinh. Truyền dạy nội dung võ theo gia truyền theo quy định của môn phái. Những bí truyền quy định rõ, môn gì được dạy rộng rãi, môn gì lưu truyền trong môn phái và môn gì không được dạy. Có những võ sư trước lúc qua đời, mới kêu con mình lại để truyền dạy các đòn bí truyền của môn phái. Người võ sư khi thâu nhận môn sinh với điều kiện môn sinh đó phải tuyên thệ tuyệt đối trung thành và thực hiện đầy đủ các điều kiện quy định của môn phái.
Trước tiên môn sinh phải học thuộc bài thiệu. Võ sư đọc từng câu thiệu trong bài, môn sinh theo đó mà tập động tác. Sau đó, môn sinh tự đọc lời thiệu, tự tập từng câu. Cứ thế mà tập cho đến khi thuộc cả bài.
Sau khi tập xong cả bài. Võ sư đọc lời thiệu từng câu lúc nhanh lúc chậm, môn sinh theo tốc độ đó mà tập, cho đến khi tự mình vừa đọc lời thiệu vừa tập hết bài.
Có những bài võ gia truyền từ đời này sang đời khác, tuy điều kiện lịch xã hội có đổi thay hay võ sư qua đời đột ngột không kịp truyền dạy lại cho con cháu. Chính nhờ các gia phả bí truyền còn giữ lại mà môn phái vẫn phát triển với nội dung gia truyền nói trên. Tuy có lúc động tác thiếu thừa, lời thiệu có khi thất lạc một vài chữ, nhưng nói chung vẫn giữ được nguyên bản của bài.
Càng về sau, nhất là từ năm 1930 trở lại đây, ở Bình Định lại xuất hiện nhiều môn phái võ cổ truyền. Ngoài những bài võ gia truyền các võ đường cạnh tranh với nhau, đua nhau dạy những đòn thế, cải tiến phương pháp giảng dạy với mục đích là bảo vệ môn phái và hạ đài được đối phương. Lúc này võ mang tính chất đối kháng, đánh nhau có kẻ thắng người thua (võ đài), mất dần đi tính chất biểu diễn.
Võ cổ truyền Bình Định đã dựa vào di sản võ nghệ thời Tây Sơn. Dựa vào thao tác lao động đơn giản của con người và động tác hoạt động của loài vật. Dựa vào võ lý sơ bộ của các nhân vật thời Tây Sơn và các tư liệu gia phả của các môn phái. Dựa vào học thuyết Âm vương, ngũ hành pháp và tấn pháp. Trên cơ sở lý luận đó mà võ cổ truyền Bình Định đã hệ thống, rút tỉa, chọn lọc và nâng cao lên thành một nền võ học tương đối hoàn chỉnh bao gồm: Võ lý, võ đạo và võ thuật. Qua đó để chứng minh võ cổ truyền Bình Định là của người Bình Định.
- Về nhập môn:
Mỗi một môn phái phải có điều kiện nhập môn khác nhau, nhưng đều có một số nét chung như: Môn sinh phải có người nhà (thường là cha) dẫn đến ra mắt thầy. Qua nhiều lần thử thách mà nhất là để xem xét thái độ xin theo học của môn sinh. Thỉnh thoảng thầy hỏi một vài câu. Có muốn tập luyện ở đây không? Có ông thầy khó tính, bỏ mặc môn sinh không nói năng gì cả. Tuy rằng gia đình môn sinh đã thưa gởi đàng hoàng. Qua nhiều lần tìm hiểu và thử thách, nếu môn sinh nào mà kiên trì và quyết tâm thọ giáo thì thầy mới thu nhận.
Theo lễ nhập môn cổ xưa xem ra có vẻ đơn giản. Cúng lễ là một con gà trống trắng. Sau khi cúng tế, cặp chân gà được phơi khô qua một tuần, thầy xem lại giò quẻ, nếu chưa đạt thì gia đình môn sinh sắm lễ vật cúng lại. Cũng cần nói rõ thêm, tuy chỉ cúng một con gà (như quy định) nhưng người nhà phải mang theo ba con để chọn lựa. Có môn sinh phải qua cúng lễ vài ba lần mới đạt và được thu nhận làm môn sinh của môn phái. Việc học hành theo tuần tự từ thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng, từ dễ đến khó và từ chậm đến nhanh.
Thầy dạy theo từng bài theo từng lời thiệu, môn sinh phải học thuộc lời thiệu. Thầy đọc lời thiệu, môn sinh theo đó mà tập động tác. Sau đó môn sinh đã thuộc lời thiệu thì tự mình tập động tác. Tập theo từng lời thiệu cho đến hết bài. Thầy kiểm tra bằng cách đọc câu thiệu nào đó trong bài, môn sinh theo đó mà tập. Cứ như thế môn sinh tập đi tập lại cho đến khi thuần thuộc.
Thông thường tập quyền thuật trước sau đó tập quyền binh khí. (Binh khí cũng theo trình tự theo từng binh khí). Trước tập đơn sau tập đánh đôi. Hầu hết các võ đường ở Bình Định song song tồn tại môn môn võ cổ truyền và võ tự do. Khi thượng đài đánh đánh nhau yếu là đánh võ tự do hay là võ đài. Còn các bài quyền võ cổ truyền mang tính chất biểu diễn.
Về võ phục, mỗi võ đường, mỗi môn phái đều có quy định võ phục theo kiểu quy định của từng môn phái, nhưng màu nâu là tiêu biểu. Võ phục chủ yếu là sử dụng cho Lễ hội, còn tập luyện thường ngày và đấu võ chỉ mặc độc nhất chiếc quần đùi, trên đầu quấn băng vải đỏ hay vàng, chứ cũng không có ai quy định.
- Về võ đạo:
Bên ngoài xã hội người ta bàn tán rất nhiều về mặt xấu của việc học võ. Họ nói: học võ để đánh lộn, học võ để trộm cướp, học võ có ảnh hưởng xấu cho học sinh. Tất cả đề là ngộ nhận, không đúng. Tất cả các thầy võ sau khi thu nhận môn dinh vào môn phái của mình với những điều kiện khó khăn nhất.
Các võ sư Bình Định, từ người có võ công cao cường, đến người am hiểu võ nghệ, đều một lòng tôn kính, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng võ cổ truyền Bình Định, rất quan tâm truyền bá về võ đạo, nói nôm na là đạo làm người. Nói đến "tâm đạo" và "tà đạo", đào thải "tà đạo" ra khỏi môn phái của mình. Vì tà đạo là kẻ xấu, lợi dụng võ nghệ để xưng hùng xưng bá, làm trái với đạo lý làm người.
Những võ sư và giới võ nghệ Bình Định giữ gìn và lưu truyền những tinh hoa độc đáo của tổ tiên mà nhất là võ đạo để tiếp tục truyền lại cho các thế hệ mai sau. Thời xưa nhiều người thi đậu "tiến sĩ võ", nhưng lại không ra làm quan mà trở về quê mở trường dạy võ, tập hợp tư liệu, hệ thống lại các bài thiệu, bài quyền, bí mật truyền bá võ nghệ cho các thế hệ. Nhờ vậy mà võ cổ truyền Bình Định không bị thất lạc mất mát, mà ngày càng ăn sâu bén rễ, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống và văn hóa của nhân dân Bình Định.
- Truyền thống thượng võ:
Đây là truyền thống cực kỳ quý báu của người dân Bình Định. Trong lành võ, người học võ trước tiên phải là người có bản lĩnh, lấy "tâm đạo" để chế ngự "tà đạo". Tâm đạo là nói đến đạo đức, rèn luyện tu dưỡng đạo làm người, sống phải cao thượng, trung thành với môn phái, truyền bá những điều hay lẽ phải, trọng nghĩa trọng tình, tôn sư trọng đạo. Một võ sĩ giỏi là một công dân tốt không phạm những điều cấm "tà đạo" như: cấm đam mê tửu sắc, dâm ô trụy lạc, rượu chè say sưa, gây lộn đánh người, phá rối trật tự xã hội, bất chấp kỷ cương phép nước. Đây là những điều cấm của võ cổ truyền Bình Định. Ngoài ra giới võ nghệ Bình Định còn phải thuần thuộc và thực hiện các việc cần làm như:
- Phải tu dưỡng bản thân trong sáng, thuần khiết.
- Phải tập luyện chuyên cần, trung thành với môn phái.
- Truyền dạy võ công theo môn phái "chính đạo".
- Không phản thầy, hại bạn và hà hiếp người khác.
- Không khoe mình, chê người.
- Thắng không kêu, bại không nản.
Cấu tạo của một bài võ, gồm hai phần là: lời thiệu (võ lý) và động tác. Thông thường phần mở đầu gồm 3-5 động tác mà thường gọi là "lễ tổ" và cuối bài có bái tổ lễ tổ và bái tổ chính là sự tôn kính tổ tiên, môn phái, kính thầy và yêu đồng môn. Nhưng võ sư nổi danh có cuộc sống bình dị, tài võ nghệ tìm ẩn bên trong, khiêm tốn, giàu lòng vị tha, ít khi lộ diện ra bên ngoài. Ngoài ra, họ còn các đức tính như: Nhân, Nghĩa, Đức, Trí, Tín. Đấy là nói lên tinh thần thượng võ mà những người võ sư chân chính phải có.
Hay nói cách khác ở Bình Định, học võ là để tự vệ giữ thân giữ nhà, để cứu đời khi cần thiết. Người võ nghệ càng cao thì đức hạnh càng khiêm nhường, sống ẩn dật, không khoe khoang kiêu ngạo, không đánh người "dưới ngựa".
Nói tóm lại, võ đạo chính là đạo đức trong sáng, cao cả, tấm lòng hỷ xả của con người có võ "tâm đạo". Người có võ mà thiếu đạo đức thì trở thành một tai họa và nguy hiểm cho bản thân "tà đạo", cho gia đình và cả xã hội.
Chính vì vậy, võ cổ truyền Bình Định rất tôn trọng những tư liệu, những gia phả của các môn phái, các gia tộc để làm cơ sở võ lý để truyền thụ và giáo dục cho các thế hệ về dòng võ chân truyền, ít bị lai tạp của quá khứ, hiện tại và tương lai. Một di sản văn hoá độc đáo, còn mang đậm truyền thống dân tộc của người dân Bình Định.
Một đặc trưng nổi bật nữa của võ cổ truyền Bình Định là tính liên hoàn và đa dạng.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:42 am

Nội dung võ cổ truyền Bình Định rất đa dạng và phong phú, bao gồm nhiều môn như: quyền tay không, quyền binh khí (binh ngắn và binh khí dài) và võ đối kháng. Cấu tạo một bài quyền, bài roi hay bài kiếm đều theo nguyên tắc liên hoàn có trước có sau có mở đầu có kết thúc trọn vẹn. Có sự kết hợp hài hòa giữa cương và nhu, giữa nhanh và chậm, giữa động tác riêng lẻ đến liên hoàn, giữa công và thủ hợp lý.
Một bài võ có hai phần: Lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường theo thể thơ lục bát, ngụ ngôn hay ca dao dân ca... Phần động tác nhiều hay ít tùy theo mục đích yêu cầu của bài võ và bao gồm các bộ pháp hoàn chỉnh. Bộ tay thì theo ngũ hành pháp là: kim mộc thủy hỏa thổ, bộ ngựa dựa theo bộ hình bát quái. Các đòn thế cấu tạo vào một bài võ cũng phải hài hòa hợp lý. Sử dụng đòn gì? Sử dụng ở đâu? Lúc nào sử dụng? Cũng phải thể hiện rõ.
- Roi tiên quyền tiếp: Điều này nói lên khi lâm trận nên sử dụng đòn gì? Nếu sử dụng roi thì phải ra đòn trước giành thế chủ động để khống chế đối phương, khi sử dụng quyền thì phải ra đòn liên tiếp, nhanh chóng và chớp nhoáng sát thủ đối phương, không để đối phương kịp trở tay tấn công lại mình.
- Túc bất ly địa: Đây là biểu hiện đòn chân của võ cổ truyền Bình Định. Bộ ngựa làm trụ cho bộ tay hoạt động, bộ ngựa di chuyển theo bộ hình bát quái, nhưng lúc di chuyển rất nhẹ nhàng, một chân làm trụ để chân kia di chuyển là là trên mặt đất, nhẹ nhàng, uyển chuyển "đi như lá" theo đồ hình bát quái, chứ không phải lúc nào hai chân cũng không rời mặt đất, khi có thời cơ dùng đến thế đá và hạ bộ, là xỉa bàn chân làm nguy hại đến tính mạng của đối phương. Khi đối thủ dùng thế đá ngang sườn thì võ cổ truyền Bình Định thường sử dụng chân ngừa, tiếp cận kẹp thế đá đó hoặc với thế đá của địch thủ, tùy theo thế thuận nghịch mà tấn công lại đối phương, luồn sát đưa ngựa vào hạ bộ của địch thủ, bắt chân vật địch thủ té nhào. Đấy là bản chất của danh từ "Túc bất ly địa".
Tính chiến đấu cao cũng là một đặc trưng của võ cổ truyền Bình Định. Lịch sử 4000 năm từ khi Vua Hùng dựng nước đến các triều đại phong kiến chiến đấu chống ngoại xâm đều sử dụng võ nghệ, mà tiêu biểu là thời nhà Tây Sơn đã đưa võ nghệ vào huấn luyện quân đội, để xây dựng một quân đội tinh thông võ nghệ, có kỷ luật nghiêm, có tinh thần chiến đấu dũng mãnh, đánh đâu thắng đó, bách chiến bách thắng.
Thời chống Pháp, võ cổ truyền Bình Định có điều kiện phát triển, nhiều võ sĩ Bình Định đã chiến thắng oanh liệt các võ sĩ người Pháp. Thời chống Mỹ, thú vị nhất là những giai thoại về các võ sĩ Bình Định đấu với các võ sĩ Nam Triều Tiên trong đội quân đánh thuê.
Trong sư đoàn Mãnh Hổ (Nam Triều Tiên) đồn trú tại Bình Định, có nhiều võ sĩ có đẳng cấp cao. Nghe nói vùng đất Tây Sơn có nhiều võ sĩ nổi tiếng, họ lân la tìm đến các võ sĩ của ta nói là để làm quen, trao đổi võ nghệ cho nhau, sau đó thì thách đấu.
Khi chạm đến tự ái dân tộc, chịu không nổi, đành phải cho họ nếm mùi thế nào là võ cổ truyền Bình Định. Chàng thanh đệ tử của võ sư Phan Thọ đã đánh gục trung úy Lee, võ sư tứ đẳng của Nam Triều Tiên tại võ đài An Khê năm 1969 là một ví dụ.
Một lần khác, các võ sư Nam Triều Tiên tìm đến nhà võ sư Vương Kiểm Mỹ đòi thách đấu. Ông bảo: "Tôi già rồi đánh đấm làm sao được nữa!"
Nhưng chúng gạ gẫm mãi, chịu không nổi, ông nói: "Tôi đứng dậy, ai vào xô ngã tôi thì xin bái phục". Ông đứng thật vững "Túc bất ly địa". Thấy ông già yếu ớt, bọn lính Nam Triều Tiên tên nào cũng muốn xông vào. Có một tên cao to, khỏe nhất trong bọn và cũng là có đẳng cấp cao về võ nghệ, dùng hết sức bình sanh để xô ngã ông. Qua nhiều lần xô ngã, nhưng không sao đẩy nhúc nhích ông được, bọn chúng xấu hổ xin chịu thua lặng lẽ ra về.
Lại một lần khác, một toán lính Nam Triều Tiên lại tìm đến nhà võ sư Hồ Ngạnh để đề nghị được "trao đổi giao lưu" giữa võ Đại Hàn và võ Bình Định, sau đó chúng gạ gẫm thách đấu. Lúc đầu Hồ Ngạnh cũng viện lý do là già cả rồi đánh đấm gì được nữa đâu! Chúng vẫn không nghe, đòi đấu cho vui "để học tập"!
Hồ Ngạnh cầm lòng không được bèn nói: Thôi thì sau ba tiếng hô, mỗi người ra một đòn nhưng không được sát hại lẫn nhau!
Chúng đồng ý. Sau tiếng hô thứ ba, nhanh như chớp, Hồ Ngạnh xuống ngựa đưa sát vào đối phương, bằng hai ngón tay (Song xỉ) đã thọc đúng vào hai lỗ mũi của võ sĩ Nam Triều Tiên trong lúc võ sĩ này không kịp né tránh hay phản đòn...
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
Nội dung võ cổ truyền Bình Định
Ý muốn của mọi người và các võ sư Bình Định là khi nói đến võ cổ truyền Bình Định phải làm sao thể hiện cho được nội dung và những đặc thù của nó, không được một môn phái nào lấy bản sắc của võ Bình Định làm bản sắc của môn phái mình.
Võ cổ truyền Bình Định kế thừa võ cổ truyền Việt Nam, lấy võ thời Tây Sơn làm nền tảng, tiếp thu chọn lọc các dòng võ miền Bắc (Đằng Ngoài), kết hợp hài hòa võ miền Nam (Đằng Trong), rút tỉa những tinh hoa võ Trung Hoa (Thiếu Lâm) đồng thời vận dụng nền võ bản địa và võ của dân tộc anh em.
Trong quá trình phát triển của dân tộc, qua thời gian dài chiến đấu chống giặc ngoại xâm để giành lại tự do độc lập cho Tổ quốc, võ nghệ là bạn đồng hành không thể thiếu và đã góp phần đánh thắng quân ngoại xâm. Người dân Bình Định rất tự hào và thấy rõ tác dụng của võ đã đem lại thể lực, sức khỏe cho nhân dân để sản xuất, chiến đấu và góp phần xây dựng cuộc sống ấm no.
Nội dung võ thời Tây Sơn
Trước khi nói đến võ cổ truyền Bình Định, chúng ta nên xem lại nội dung võ Tây Sơn.
Võ Tây Sơn kết hợp hài hòa giữa cương công và nhu công; giữa ngoại công và nội công. Nội dung võ Tây Sơn bao gồm nhiều môn, phân chia thành bốn nội dung như:
- Phần một là luyện công
Luyện công là một nội dung rèn luyện thể lực bao gồm hai phần là khinh công và khí công.
Khinh công là phương tiện luyện tập ngoại hình, luyện sức bền, sức chịu đựng dẻo dai và linh hoạt (sức chịu đựng bên ngoài).
Khí công là phương pháp luyện tập nội lực (sức chịu đựng bên trong cơ thể). Tập thở mà chủ yếu là nói thở. Tập lên gồng là tập nín thở, đưa tất cả sức lực, vận khí làm các cơ bắp căng ra (trương cơ) to phình lên, cho đối phương mặc sức đấm đá.
- Phần hai là quyền thuật
Quyền thuật bao gồm các môn luyện tập tay không, không có binh khí chỉ dùng tay chân. Cấu tạo bằng cương quyền và nhu quyền, với kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm đòn công và đòn thủ lợi hại, đánh trả đòn rất quyết liệt, mang tính chất sát thương cao. Những bài quyền dùng sức mạnh với mục đích tiêu diệt đối phương nhanh. Còn nhu quyền mang tính thủ, né tránh linh hoạt, lợi dụng tình thế từ thủ sang tấn công nhanh, linh hoạt.
- Phần ba là Võ với binh khí
Binh khí bao gồm: dài và ngắn. Dài bao gồm các môn như: roi, thương, đại đao và lao… Binh khí ngắn bao gồm: cung tên, dao mác, kiếm ngắn và kiếm dài…
- Phần bốn là Luyện tinh thần
Luyện tinh thần bao gồm: "Tâm đạo" và "Tà đạo". Tâm đạo là nói đến luân thường đạo lý (luân lý). Trên dưới phân minh, tôn sư trọng đạo và những điều cấm đối với võ sinh.
Với phương pháp tập luyện bao gồm các bước như sau:
Tập luyện để rèn luyện dáng hình
Tập luyện để đi vào áp dụng
Tập luyện thực hành trên các dụng cụ (bao cát, người giả).
Nội dung võ cổ truyền Bình Định
Nội dung võ cổ truyền Bình Định bao gồm các môn như:
Về quyền (Võ múa):
Quyền còn gọi là thảo bộ, hay còn gọi là Quyền tay không, khi thực hiện một bài quyền, tất cả các bộ phận trong cơ thể đều tham gia hoạt động mà nhất là bộ tay, bộ chân và nhãn pháp tham gia hoạt động nhiều hơn.
Quyền thường là có bài (Bình Định hiện có khoảng bốn mươi bài) bao gồm: Nhu quyền và Cương quyền. Với nội dung tập thể và cá nhân.
Nhu quyền là bài quyền thể hiện mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt chủ yếu là biểu diễn cá nhân và né tránh đòn thế tấn công của đối phương, như: Quyền thể dục, quyền dưỡng sinh, quyền biểu diễn và quyền tự vệ.
- Quyền thể dục là nội dung tập võ (có thể thay bài thể dục buổi sáng) ở khối nhà trường và cho tất cả đối tượng khác.
- Quyền dưỡng sinh là môn tập cho những người lớn tuổi (thường là nhu quyền).
- Quyền biểu diễn (võ múa): Thường các ngày lễ hội, quyền là môn biểu diễn chủ yếu và là một nội dung thi đấu của võ cổ truyền Bình Định (sau ngày giải phóng mới xuất hiện).
- Quyền tự vệ (Võ tự vệ): Quyền tự vệ chủ yếu là sử dụng các đòn thế, không có bài bản gì cả. Thời Tây Sơn mọi người dân đua nhau học võ để tự vệ bản thân, chống chọi với khí hậu rừng thiêng nước độc, đánh thú dữ và chống bọn xấu cướp đường, cướp phá buôn làng. Chống bọn tham quan ô lại, hà hiếp dân lành, bọn lý hương xã thôn quấy nhiễu người dân, đòi siêu cao thuế nặng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân dân ta, võ tự vệ là một nội dung của binh chủng đặc công. Bộ đội hoạt động ở nội thành vận dụng nó để tiếp cận quân thù, tiêu diệt chúng mà không để lại dấu vết.
Võ với binh khí
Võ binh khí bao gồm hai loại: Võ binh khí ngắn, Võ binh khí dài.
Binh khí dài gồm các môn như: roi, thương, đại đao, chĩa ba ... Các môn này lưu hành rất rộng rãi, nhưng đặc biệt có môn roi (côn) là thịnh hành rộng rãi nhất. Các võ đường ở Bình Định đều tập môn roi, chiếm tỉ lệ 30-40%. Môn côn (roi) còn có trường côn và đoản côn. Môn đoản côn phát triển cũng khá rộng. Đã sưu tầm được 80 bài roi.
Binh khí ngắn gồm các môn như: đao, rựa, kiếm, búa, lưỡi lê, song đao, bắn cung và nhị khúc (tam khúc)...
|Kiếm là một môn phát triển rộng ở trong và ngoài tỉnh Bình Định. Chiếm khoảng 20-30% nội dung dạy võ ở các võ đường. Kiếm gồm song kiếm và độc kiếm. Kiếm cũng có hai loại: kiếm cong và kiếm thẳng.
Kiếm cong còn có vỏ bọc bên ngoài, thường gọi là kiếm lệnh dùng cho những ai đảm trách được nhiệm vụ ra lệnh cho người khác thi hành (còn gọi là kiếm chỉ huy). Nói là kiếm cong nhưng chỉ cong một đoạn ở mũi kiếm.
Kiếm thẳng (có bao hoặc không bao) là kiếm phổ thông dùng trong tập luyện, thi đấu và giáp trận. Bình Định đã sưu tầm được 20 bài kiếm đang lưu truyền trong dân gian. Nhiều nhất là kiếm thời Tây Sơn. Nhiều bài có lời thiệu, có bài không. Bài "Mai hoa kiếm pháp" được lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác.
Võ chiến đấu
Võ chiến đấu gồm: võ thi đấu và võ đấu, hai loại đều mang tính đối kháng.
1.Võ thi đấu:
Là một trong nội dung quy định thi đấu, như các môn võ đã nói ở trên thi đấu theo điều lệ, có trọng tài giám định.
Võ chiến đấu là võ đánh nhau thật sự, đánh với mọi đối tượng, đánh không có sự ràng buộc gì cả. Đánh nhau trên mọi trận địa với tất cả các loại võ khí hiện có. Chủ yếu đánh nhau ở cự ly gần (cận chiến hay còn gọi là đánh sáp lá cà). Mà loại võ chiến đấu này thể hiện và được áp dụng rộng rãi ở giai đoạn trước và trong thời Tây Sơn. Trong thời chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, bộ đội đặc công của ta đã vận dụng võ chiến đấu đến tận sào huyệt của địch mà tiêu diệt chúng. Võ chiến đấu thường là ít có bài bản nhất định mà chủ yếu là sử dụng các đòn thế mà đặc biệt là đòn thế bí truyền nguy hiểm. Đánh mà kẻ địch không biết đau mà chết tại chỗ, hay là chết dần chết mòn sau đó mà không cách nào thuốc gì cứu chữa được. Chỉ có phương cách duy nhất là dùng thuốc võ đặc trị mà hay nhất là tìm được thuốc võ người đã đánh mình (phương pháp giải độc).
Võ chiến đấu bao gồm một số môn như:
- Võ tay không đánh với tay không (dùng đòn tay đòn chân).
- Võ tay không đánh với binh khí (kể cả các loại binh khí).
- Võ binh khí đánh với binh khí.
- Một người đánh với nhiều người.
Một mình khi bị nhiều người bao vây, thì sử dụng đòn đánh phá vây.
- Đánh võ trên mọi địa hình, mọi trận địa.
Thách đấu võ với nhau mà không cần tuổi tác, nam nữ (võ đài)...
Nội dung võ Bình Định cũng còn một số môn khác như: Lăng khiêu, dùng dây, ném dao, ném chì, roi hai đầu, chùy... nhưng không phổ biến, lâu lâu mới thấy xuất hiện, lúc ở nơi này lúc thì nơi khác, mà nhất là ít người biết đến chỉ có một hai võ đường dạy, theo cách gia phả lưu truyền.
Võ đài
Đây là một loại hình thi đấu khá đặc biệt, chỉ có Bình Định tổ chức mà thôi, có một võ sư thủ đài, đài ở đây không cố định, có lúc trên đồng ruộng khô, trên đồi núi, miễn sao có một khoảng đất trống để hai người có thể đấm đá là được. Có lúc cũng có sàn đài cao hơn 1 mét, có chiều rộng hẹp không cố định, không có dây Rin bảo vệ xung quanh. Võ sư thủ đài thượng đài thách đấu tất cả các võ sư không phân biệt nam nữ, tuổi tác, cũng không cần đến trọng tài, hai người dùng đủ mánh khóe, ra đòn công thủ tùy ý, đánh nhau cũng không tính thời gian, hễ ai bỏ chạy và rơi xuống đài là thua cuộc.
Thời Tây Sơn, Bùi Thị Xuân thượng đài thách đấu, qua ba ngày chưa gặp đối thủ. Cha Bùi Thị Xuân công bố, nếu võ sư nào đánh hạ đài được con gái ông thì ông gả luôn thành chồng vợ. Một võ sư xuất hiện không xưng danh tánh, khăn che mặt lên đài thi đấu. Đầu tiên hai người đấu kiếm, xoay vòng bên nhau, đường kiếm kẻ đâm người đỡ, kẻ chém người kê, giao đấu mấy trận khá lâu, bỗng thình lình võ sư nam đá bay kiếm của Bùi Thị Xuân. Hai người lại đấu với nhau võ tay không. Đấu với nhau cũng khá lâu mà chưa phân thắng bại, linh tính của Bùi Thị Xuân cho đây là võ sư quen biết, bà xin dừng trận đấu. Đúng là võ sư Trần Quang Diệu mà trước đây bà đã đánh cọp cứu chàng. Từ đó hai người thành vợ chồng và cũng là hai vị tướng nổi tiếng của thời Tây Sơn.
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
Võ cổ truyền Bình Định ở ngoài tỉnh
Dưới thời Nguyễn Ánh, sợ liên lụy đến nhà Tây Sơn, để tránh sự truy bức và sát hại nên nhiều võ sư Bình Định đi tìm nơi ở mới để mai danh ẩn tích và tìm điều kiện tiếp tục truyền dạy võ; cũng có người rời quê hương ra đi vì nhiều lý do khác. Ở đây không thể đề cập đầy đủ mọi trường hợp mà chỉ nêu lên một số võ sư đã đi khỏi tỉnh Bình Định.
Bình Định Gia
Các võ sư người Bình Định tập kết ra Bắc năm 1954 tiêu biểu có: Mai Liên Kỳ, Trương Cẩn (người Tuy Phước), Dương Tài (Hoài Nhơn), Nguyễn Tiếp, Nguyễn Thiệp là con của võ sư nổi tiếng An Vinh - Bảy Lụt và võ sư Trần Hưng Quang (Phù Cát). Chính các võ sư này đã truyền dạy võ cổ truyền Bình Định ở nhiều tỉnh và thành phố ở miền Bắc.
Riêng võ sư Trần Hưng Quang còn là một nghệ sĩ hát tuồng. Ông đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa võ nghệ và hát tuồng; sáng lập ra phái võ Bình Định gia, đào tạo hàng ngàn võ sĩ trong đó có nhiều người được phong cấp võ sư. Ông trực tiếp huấn luyện ở Hà Nội và một số tỉnh, thành phố miền Bắc.
Võ phái Sa Long Cương
Trên cơ sở võ cổ truyền Bình Định, do võ sư Trương Thanh Đảng sáng lập tại Sài Gòn năm 1945. Tên của môn phái võ hàm ý một sự chịu đựng kiên cường như cây xương rồng sống trên cát (sa là cát, long cương là xương rồng). Hiện nay võ phái này phát triển mạnh ở thành phố Hồ Chí Minh. Con trai võ sư Thanh Đảng là võ sư Trương Bá Đương làm chấp chưởng môn phái. Nay là võ sư Lý Huỳnh, là diễn viên nổi tiếng điều hành môn phái.
Võ trận Bình Định
Là võ phái được thành lập từ năm 1965 tại Phú Yên, do võ sư Tống Văn Điền sáng lập. Nguồn gốc của võ phái là võ trận mà Nguyễn Hệ đã sử dụng huấn luyện nghĩa quân từ thế kỷ 18. Võ phái này được phát triển mạnh tại thành phố Hồ Chí Minh do võ sư Minh Thế, con trai của võ sư sáng lập làm chưởng môn phái.
Tây Sơn Bạch Long
Trên cơ sở võ Tây Sơn Bình Định, do võ sư Lê Khánh Dư sáng lập năm 1943 tại thành phố Hồ Chí Minh. Tây Sơn Bạch Long là sự kết hợp võ cổ truyền Bình Định với võ thiếu lâm (tân). Từ năm 1950-1959 do võ sư Lê Mô làm chấp chưởng môn phái đời thứ hai. Hiện nay võ sư Lê Thành Trung làm chấp chưởng môn phái đời thứ ba. Từ năm 1960 đến nay, Tây Sơn Bạch Long có võ đường tại Mỹ, Iraq và Thái Lan.
Tây Sơn Thiếu Lâm
Do võ sư Lê Văn Lắm, người Bình Định khởi xướng từ năm 1962 tại Sài Gòn. Hiện nay do võ sư Danh Ngợi làm chưởng môn phái. Võ sư Lê Văn Lắm là con bốn đời gia đình dạy võ. Ông đã bỏ công học võ hơn hai mươi năm, để rồi thành lập ra môn phái. Đây là võ phái có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa võ cổ truyền Bình Định gắn với cái đặc sắc của võ thiếu lâm - Tây Sơn (hay Tây Sơn - thiếu lâm). Vì vậy, mặc dù trong tên gọi có thiếu lâm, nhưng cái gốc vẫn là đại diện phái võ Bình Định. Hiện nay võ phái này đang phát triển rộng rãi ở một số địa phương như: Bến Tre (Võ sư Lê Phi Long), Tây Ninh (Võ sư Lê Văn Thôi), Sông Bé (Võ sư Huỳnh Ngọc Châu).
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:43 am

Võ phái Tây Sơn
Nói đến Tây Sơn là người ta nhớ ngay đến võ sư Phan Thọ, ở Bình Nghi - Tây Sơn.
Trong gia đình ông mọi người biết võ mà đặc biệt là biết nhiều môn. Sân tập võ có đầy đủ các loại binh khí, sắp theo thứ tự, binh khí dài dựng trên một cái giá làm bằng tre đơn giản gồm: Roi, đại đao, chĩa ba, cào cỏ…; xếp hàng sát tường nào kiếm, song đao, búa và nhiều loại khác nữa.
Một lần chúng tôi đến nhà Phan Thọ để sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu võ Bình Định, ông tiếp chúng tôi từ tốn, mời chúng tôi vào nhà, rồi cầm bình rượu mang ra và nói: "Tiểu bôi khai khẩu", dùng chung rượu đã, nói chuyện sau.
Khách muốn nhập môn phái Tây Sơn thì phải uống rượu Bàu Đá Tây Sơn. Đây là thứ rượu ngâm thuốc làm mạnh gân cốt, rượu đặc biệt của con nhà võ đấy. Thảo luận qua lại hồi lâu, ly rượu bầu đá uống cạn, hơi nóng thơm dịu hòa tan trong không khí ấm áp tấm lòng con nhà võ.
Võ sư Phan Thọ bảo anh con trai lớn đem tất cả các loại binh khí bày la liệt trên chiếc phản gỗ. Vừa giới thiệu vừa vuốt ve những thứ binh khí, cán dao, cán kiếm và những thân cây roi, cây đại đao bóng loáng vì năm tháng, những thứ gỗ đã ngả màu sẫm như màu sắt.
Võ sư Phan Thọ ra sân đứng xuống ngựa, múa vài đường trong những bài quyền trông rất chân phương quê mùa nhưng toát ra những đường nét võ nghệ cao cường. Người có bộ tay ung dung thư thái nhưng rất hay, đúng kỹ thuật. Hai tay co lên che ngực rồi bắt đầu thao diễn bộ tay theo ngũ hành pháp (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) trên ngựa trung bình tấn, khi bài quyền được chuyển động mới thể hiện hết cốt lõi kỹ thuật và nghệ thuật cao siêu mà ít người có được.
Dân gian truyền thuyết, cách đây nhiều năm, có một con heo rừng (loại heo độc) xuống phá cánh đồng mía của An Vinh, dân làng sợ hãi chạy tán loạn, chạy về gọi bác Phan Thọ. Một mình xách một cây chĩa ba, chạy ra cánh đồng tìm con heo. Con heo trong cơn điên loạn, đang đào ủi đất lên thành từng đống đã phá nát một khoảng ruộng mía. Thấy có người đến, con heo hung hăng lao vào. Người với heo quần nhau hơn một tiếng đồng hồ dưới ánh nắng chiều oi ả.
Dân làng được chứng kiến một cuộc đọ sức giữa người và vật rất sợ hãi mà thú vị. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, mồ hôi đầm đìa, bác Thọ cẩn thận quất một gậy thật mạnh vào đầu con heo, con vật lăn đùng nằm bất động. Ông cất tiếng cười hả hê chất phác, thu chĩa ba rảo bước ra về, như vừa làm xong việc đồng áng. Dân làng vui mừng khiêng con heo về làng, làm thịt trước cúng tổ tiên, sau ngả ra nhậu một bữa no nê.
Chúng tôi đàm đạo với võ sư Phan Thọ và rất đỗi ngạc nhiên trước sự hiểu biết sâu rộng về võ nghệ với một trí nhớ phi thường về võ của ông, mà vùng đất này không mấy người sánh kịp. Vùng đất Tây Sơn còn in đậm dấu ấn, nơi sinh ra và trưởng thành của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Khai thác mãi, võ sư Phan Thọ mới chịu cung cấp một tập sách, dày 136 trang, viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Trong đó có 66 trang ghi các bài thiệu, các đòn thế và biểu thế các bài võ. Đặc biết có bài võ được phân thế rõ ràng. Tư liệu này do ông Đào Thống ký. Song do để lâu ngày có một số trang bị mục nát, rách nát nhiều chỗ. Chỉ còn lại 18 bài thiệu nguyên vẹn.
Ở Tây Sơn còn có võ sư Trần Vĩnh Nghè (chết), Trần Dần, Lê Thành Khâu, Hồ Xuân Kỳ và Phan Hùng (con trai Phan Thọ) sau này kế tục sự nghiệp của cha.
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
Võ phái Tuy Phước
Người có biệt danh "Hùm xám miền Trung" là võ sư Hà Trọng Sơn ở huyện Tuy Phước. Ông sinh năm 1924 (theo giấy tờ tùy thân thì ông sinh ngày 6-11-1926) tại An Hòa, Phước An, Tuy Phước. Theo lời ông kể, năm mới lên 8 tuổi, ông đã được bác và chú dạy võ gia truyền cùng với các võ sư: Hà Cảnh, Hà Tùng và Hà Để. Sau đó ông còn học thêm võ sư Lâm Đắc Đạo, người xứ Bắc vào lập nghiệp.
Tại Đại hội võ thuật Đông Dương tổ chức ngày 12-10-1944 tại Tourane (Đà Nẵng), ông đấu với võ sư người Pháp (tên là Esperpaire) cao to và nặng hơn ông rất nhiều. Mọi người sợ hãi, lo cho ông đánh không lại. Hai bên giáp trận, thăm dò nhau khoảng 3-5 phút. Đánh qua, đánh lại 15-20 phút. Võ sư người Pháp ra đòn rất mạnh, hòng đè bẹp Hà Trọng Sơn. Né tránh hết các đòn đánh, thình lình Hà Trọng Sơn ra đòn bí truyền nguy hiểm. Esperpaire dính đòn sụp đổ xuống sàn đài. Tiếng hoan hô vang dậy. Hà Trọng Sơn đoạt giải vô địch.
Sau đó, ông đoạt giải vô địch miền Trung, được tổ chức tại Hội chợ Bình Định. Rồi lại tiếp tục đoạt giải vô địch tại Đà Nẵng. Theo báo chí đương thời, ông được mệnh danh là "Hùm xám miền Trung".
Có lần thách đấu với "Cáo già miền Nam" Huỳnh Tiền, Hà Trọng Sơn kể rằng: Huỳnh Tiền rất mê tín dị đoan, ngậm thẻ ông Phật trong miệng để Phật phù hộ đánh thắng. Đánh qua đánh lại, kẻ đánh người đỡ, hai võ sư xoay tròn trên sàn đài. Rất nhiều đòn đánh hay được mọi người vỗ tay hô vang tán thưởng. Với những đòn võ bí truyền, khoảng hơn 10 phút, Hà Trọng Sơn đã hạ đo ván võ sư Huỳnh Tiền trước hàng ngàn tiếng vỗ tay reo hò. Trận đấu được tổ chức năm 1950 tại Đà Nẵng.
Có lần chúng tôi tìm đến nhà Hà Trọng Sơn, khoảng giữa trưa, thấy hai cha con ông (con gái) đang tập võ trước sân. Ánh nắng ban trưa chen qua lá cây trong vườn rọi ánh sáng đến cha con ông, mồ hôi nhẫy nhụa. Hà Trọng Sơn người cao to tráng kiện hồng hào, tay chân dài, có đôi mắt sáng long lanh. Thấy chúng tôi, ông ngừng tay và chào, cô gái thẹn thùng chào theo. Đáp lễ, chúng tôi chào lại và hỏi thầy đang dạy bài kiếm gì vậy. Ông trả lời ngay:
- Đây là bài "Mai hoa kiếm pháp", là gia bảo của họ Hà đấy, do các con ông bác truyền dạy. Trong nhà tôi từ già đến trẻ ai cũng biết bài kiếm này.
- Bài kiếm này có liên quan gì đến các trận đấu võ đài mà thầy đã hạ gục đối phương?
- Nói có cũng được mà nói không cũng chẳng sao. Bài này mang tính chất võ biểu diễn, nhưng cũng có các đòn thế tuyệt kỹ nếu biết ứng dụng nó qua quyền tay, nhưng cũng không lợi hại lắm. Tôi hạ đối phương là khi dùng đến những đòn bí quyết như "thử trước đánh sau", "đánh lật sườn".
Hà Trọng Sơn là người có công bảo vệ bản sắc dân tộc võ cổ truyền Bình Định, đấu tranh chống lại một số người lợi dụng danh nghĩa võ Bình Định để truyền bá những môn phái võ khác. Ông đã cùng một số võ sư Bình Định soạn ra bài kiếm "Mười hai", có nghĩa là mười hai võ sư, mười hai động tác và mười hai phút cho bộ đội và cán bộ tỉnh Bình Định sử dụng trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Ngoài võ sư Hà Trọng Sơn, ở Tuy Phước còn có các võ sư: Hữu Nghĩa, Phi Long Vịnh và Thanh Hoàng là những người có công xây dựng võ Bình Định.
Quyền An Vinh
Quyền An Vinh gắn liền với dòng họ Đinh. Họ Đinh gốc ở Bắc vào lập nghiệp ở Bằng Châu (huyện An Nhơn). Võ sư Đinh Văn Nhưng (hay còn gọi là Đinh Chảng) là một võ sư với võ nghiệp cao cường, đã từng dạy cho ba anh em Tây Sơn, mà chủ yếu là Nguyễn Huệ và một lòng một dạ với nhà Tây Sơn. Khi Gia Long lên ngôi trả thù nhà Tây Sơn thì ông đã qua đời. Họ Đinh ở Bằng Châu phải đổi sang họ Đào để tránh sự truy lùng trả thù của nhà Nguyễn. Đến khi tình hình trở lại bình yên thì trở lại họ Đinh. Vậy nên mới có câu: "Sinh Đào tử Đinh". Nhưng có một số người vẫn giữ họ Đinh, di tản về ở An Vinh (Tây Sơn). Họ Đinh ở đây vẫn nhận võ sư Đinh Văn Nhưng làm sư tổ.
An Vinh nằm bên bờ tả ngạn sông Côn, thuộc huyện Tây Sơn, đối diện với thị tứ An Thái ở bờ bên kia sông, quanh năm xanh mát, đất đai màu mỡ do phù sa do sông Côn bồi đắp. Đời sống kinh tế có phần sung túc nên nạn cướp luôn đe dọa, nhiều người cần phải học võ, nhất là các nhà khá giả, địa chủ, phú hộ. Từ đó các môn phái võ được ra đời, đứng đầu trong giới võ có võ sư: Nguyễn Ngạc (tức Hương Mục Ngạc), Khiển Phạm, Năm Nghĩa, Hương Kiểm Cáo (con trai Hương Mục Ngạc) đến Bảy Lụt, bà Tám Cảng, Đội Sẻ, Đinh Hề (Hương Kiểm Mỹ), Ba Thông, Tuần Sửu, Sáu Hà, Bốn Mỹ… đã cùng nhau tạo dựng được những thế mạnh của mình với những đường quyền hiểm hóc và được lưu truyền đến mãi ngày nay.
Một trong những trụ cột của vùng đất An Vinh phải nói đến dòng họ Nguyễn (Nguyễn Ngạc). Ông sinh năm 1850 trong một gia đình có võ nghệ cao cường; chính ông là người đứng ra thành lập môn phái và chọn cho mình một hướng đi riêng. Từ nhỏ, ông đã chuyên tâm nghiên cứu về môn quyền thuật, vì ông quan niệm: Quyền chính là cái gốc của võ, hơn nữa lúc bấy giờ ở vùng đất Thuận Truyền có đường roi tuyệt kỹ của Hồ Nhu thì An Vinh phải "bá chủ" về quyền. Trong dân gian có câu "Roi tiên, quyền tiếp" nhằm khẳng định sự lợi hại, mối quan hệ liên hoàn và hỗ tương của nó.
Môn phái này đã truyền thụ cho hàng trăm môn đệ ở khắp nơi. Sau khi ông Ngạc qua đời, các con cháu của ông đã lần lượt giữ vai trò chưởng môn và thu nhận nhiều môn sinh, gây được tiếng vang và có ảnh hưởng rộng lớn trong vùng, tiêu biểu có võ sư: Bảy Lụt, bà Tám Cảng, Chín Giác đến các con của Bảy Lụt như: Nguyễn Tiếp, Nguyễn Thiếp… đều là những võ sư nổi tiếng đã cùng dòng tộc vun đắp môn phái của mình ngày càng đơm hoa kết quả.
Ở An Vinh còn có hai gia phái nữa, đã một thời tiếng tăm lừng lẫy (cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX). Đó là đôi bạn võ Năm Nghĩa (tên thật là Hữu Nghĩa) và Hương Mục Ngạc, khởi xướng vào năm 1892. Năm Nghĩa truyền dạy cho Hồ Hảo, còn Hương Mục Ngạc truyền cho ba người con là Bảy Lụt, Tám Cảnh (nữ) và Chín Giác. Một vài giai thoại kể lại, khoảng năm 1920-1921 võ sư Bảy Lụt danh tiếng đã tham gia đánh bắt bọn cướp Dư Đành và chị Tám Cảng trừng trị bọn thanh niên côn đồ chọc ghẹo chị.
Võ An Vinh là sự kết hợp giữa võ nghệ người dân tộc (người Chămpa, Bana, Hơrê) với những người Kinh đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp và người Kinh bản địa, trong sự chung lưng đấu cực giữa các dân tộc để bảo vệ sự sống, để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực bên ngoài. Dòng võ An Vinh kết hợp vốn võ của mình cùng với những đòn thế độc đáo của võ họ Đinh và võ của các dân tộc bản xứ thành một dòng võ đặc sắc chỉ có vùng này mới có, đặc điểm của võ An Vinh là "đi như lá, đứng như đá, công thủ đi liền" và "vừa hư vừa thật".
Võ sư Bảy Tòng (tức Từ Tâm), quê gốc An Thái, song đã tìm đến An Vinh và xây dựng gia đình ở đây. Ông học võ thầy Sáu Hà, tiếp nhận một số vốn võ của An Vinh và Bình Định. Ông cho biết: Quyền An Vinh là lối đánh chậm, chắc nhưng kín đáo và chắc đòn, biết nhu, cương đúng lúc, đúng chỗ, lại có những thế né tránh phản đòn rất lợi hại (mà tiêu biểu là "thế đòn").
Ngoài truyền dạy vốn võ cổ truyền dân tộc, các bài thảo quyền, võ sư Bảy Tòng còn dạy những bài Côn, Kiếm, Song đao với tất cả tâm huyết cho những võ sinh đã được chọn "chọn mặt, gởi vàng".
Quyền An Vinh còn phải kể đến gia phái võ sư Mười Đậu ở Trường Úc (Tuy Phước). Võ sư Mười Đậu là bạn với Hương Mục Ngạc và Năm Nghĩa từ cuối thế kỷ XIX, đã truyền dạy cho Xã Hào (tên thật là Trần Trọng). Xã Hào là một võ sư nổi tiếng ở vùng Tuy Phước ở những thập kỷ đầu vào giữa thế kỷ XX. Lập võ đường vào thập kỷ 30 để dạy võ, ông đặc biệt quan tâm đến truyền dạy đạo đức (tâm đạo) cho con nhà võ, kiên quyết từ chối thu nhận những môn sinh có biểu hiện hung khí. Ngày nay người con trai thứ ba là võ sư Minh Tịnh, đang phụ trách võ đường Xã Hào xưa. Võ đường chuyên dạy các môn như: Quyền, Roi, Kiếm (độc kiếm), đặc biệt coi trọng bộ tay (ngũ hành pháp) và bộ ngựa (Bát quái pháp). Với những đòn sắc khí, xuất ra có hiệu quả cao. Ngoài ra, tại An Vinh còn có võ sư Trần Dần, võ sư Lý Thành Phiên, ở Bình Nghi có võ sư Phan Thọ, ở Tây Sơn còn có võ sư Trần Vĩnh Nghê cũng vận dụng võ An Vinh.
. Theo Võ cổ truyền Bình Định (Lê Thì)
Roi Thuận Truyền và tên tuổi võ sư Hồ Ngạnh
Khi nói đến roi Thuận Truyền thì mọi người trong tỉnh Bình Định nói riêng và những người hiểu biết về roi cả nước không thể không kể đến tên tuổi võ sư Hồ Ngạnh, một con người nổi tiếng nhất ở đây về roi chiến.
Có một lần do ham vui mà ông đã vào Phú Yên theo lời rủ rê của bạn bè. Hồ Ngạnh thật không ngờ chuyến đi ấy thật ra là chuyến ăn cướp có tính toán nhằm một nhà giàu người Hoa ở Phú Yên. Chủ nhà là dòng dõi vong thân nhà Minh nên võ nghệ khá cao cường. Khi cả bọn xô cửa vào đã thấy chủ nhà cầm cây roi đứng chờ sẵn. Vì nhà có một cửa vào mà chủ nhà đứng chủ động tấn công tới tấp nên có người bị thương.
Khi ấy Hồ Ngạnh còn đứng ngoài thấy như vậy kêu bạn bè lui ra để một mình ông vào. Qua mấy đường thi đấu thì ưu thế đã thuộc về ông, chủ nhà thấy yếu thế đã lùi vào sân. Sau một hồi giao đấu, Hồ Ngạnh đã sử dụng tuyệt chiêu chọc một roi xuyên luôn qua người đối phương. Đánh xong ông không nói năng gì mà lẳng lặng bỏ ra về.
Từ đó tiếng tăm của ông lừng lẫy, nhưng cũng vì câu chuyện đi ăn cướp này đã làm ông khổ tâm và dằn vặt mãi.
Từ lâu Hồ Ngạnh nghe tin ở An Thái có người Hoa kiều tên Tàu Sáu (Diệp Trường Phát) võ nghệ cao cường, nhất là về võ Thiếu lâm Trung Quốc, ông rất muốn tiếp kiến, trước làm chỗ thân quen, sau thử tài và tìm hiểu thêm về võ Tàu.
Tại nhà Tàu Sáu, Hồ Ngạnh đã thuyết phục ông nhận giao đấu. Để tránh nguy hiểm, hai bên đã mặc võ phục, tay quấn vải và không được đánh mạnh vào thân nhau, mà chỉ dùng kỹ thuật điểm vết trên võ phục của nhau. Thời gian đấu là tàn cây nhang 3 tấc ta và đấu quyền trước, đấu roi sau.
Hai người ra sân tập, Hồ Ngạnh chấm hai tay vào mực đỏ, Tàu Sáu chấm hai tay vào mực xanh, cùng bái tổ và vào cuộc. Hai bên đánh nhau nhanh như chớp và quần nhau liên tục. Sau một hồi bỗng Hồ Ngạnh nhảy ra và nói: Thôi đủ rồi, quả là danh bất hư truyền. Tàu Sáu bắt tay ông và chỉ vào người mình nói: "Bốn vết mực đỏ của anh…", Hồ Ngạnh tiếp lời: "Hai vết mực xanh của anh trên ngực tôi đây cũng đủ hạ tôi rồi, tôi phục anh lắm, thôi bây giờ ta sang đấu roi."
Hai cây roi mỗi đầu có bọc vải trắng có đệm bông được đưa ra. Một thấm mực xanh do Hồ Ngạnh cầm, một thấm mực đỏ do Tàu Sáu giữ. Nhang lại được đốt lên và hai người giao đấu. Những tuyệt kỹ được hai bên tung ra, người phản công, người tấn công, qua lại rất nhanh và cũng rất nguy hiểm.
Hồ Ngạnh thử dùng đường roi sát thủ bí truyền xem đối phương đối phó ra sao, tấn công liên tiếp làm Tàu Sáu không kịp phản công mà chỉ lo chống đỡ. Sắp tàn cây nhang, Tàu Sáu nhảy ra ngoài và nói: "Vạn lần cảm ơn anh đã nương tay, thật cảm phục vô vàn. Những vết roi của anh điểm vào rất đúng chỗ hiểm huyệt, thật tuyệt quá." Hồ Ngạnh mỉm cười nói: "Những vết mực của anh đây cũng độc đáo lắm."
Kể từ lần giao đấu ấy, hai người kết thân nhau và kết nghĩa thâm giao. Tàu Sáu đã tặng Hồ Ngạnh câu: Đoản côn Thuận Truyền duy hữu nhất (Roi Thuận Truyền chỉ có một).
Hồ Ngạnh cũng tặng lại câu: Thủ vũ An Thái ngã vô song (Tay quyền An Thái cũng không hai).
Sau này, triều đình có triệu Hồ Ngạnh ra kinh đô dạy võ cho một số thanh niên Hoàng tộc. Trong số này có một người rất thông minh và lại rất muốn thử tài với thầy, tạo mọi cơ hội thượng đài so tài với các danh sư khác, có thế mới có hy vọng được ngọn roi bí truyền của thầy.
Tàu Sáu tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 ở Trung Hoa sang Việt Nam làm ăn. Lúc nhỏ ông học võ Thiếu Lâm ở quê nhà, sau này sang sinh sống ở làng An Thái. Ông có hai người con là Diệp Bảo Sanh và Diệp Bảo Sơn đều là võ sư nổi tiếng ở Bình Định một thời.
Lúc ấy có một nhóm Sơn Đông mãi võ có mặt tại chợ Đông Ba, trong đó có Trịnh Hoàng Kế là võ sư thượng đẳng môn đại đao, sẵn sàng nhận thi đấu với bất kỳ ai. Ông Hoàng môn sinh của Hồ Ngạnh đã vui vẻ và sốt sắng đứng ra tổ chức cho thầy mình đấu với Trịnh Hoàng Kế. Võ đài được lập tại khu chợ Gia Lạc. Qua nửa giờ thi đấu, những người ủng hộ Hồ Ngạnh thấy ông ở thế bị động, rất lo lắng vì thông thường ông đánh trên khoảng gò rộng còn ở đây võ đài bị hạn chế vì hẹp, nên Hồ Ngạnh khó di chuyển.
Thanh đao của đấu thủ vun vút tung ra những đòn thế lạ. Bỗng ông Hoàng hét to: "Xin dừng trận đấu", cũng vừa lúc roi của ông Hồ Ngạnh bị chém làm hai khúc. Lập tức được thay thế cây roi khác, nhưng Trịnh Hoàng Kế không chịu, vì cho rằng y đang thắng vì đã làm gãy roi của đối phương. Ông Hoàng chưa biết làm sao thì Hồ Ngạnh đã từ tốn trả lời đồng ý đấu tiếp và yêu cầu nếu lần sau có bị gãy roi thì cũng đừng bận tâm.
Chưa nói hết câu thì Hồ Ngạnh đã nghe tiếng xé gió của thanh đao từ phía sau chém tới của đối thủ. Đúng lúc hai đấu thủ đang tập trung cao độ vào các thế đánh của nhau thì roi của Hồ Ngạnh bị chém trúng một lần nữa, chỉ còn lại một khúc khoảng 30 cm. Mọi người hồi hộp vì đoạn roi còn lại trong tay Hồ Ngạnh quá ngắn. Nhưng thật bất ngờ vì đoạn roi đó đã trở thành mũi dao sắc bén nhanh như chớp cắm ngập vào chiếc thắt lưng xanh có thêu dòng chữ "Vô địch võ lâm" trên người của Kế.
Bằng đòn đánh bí truyền này, Hồ Ngạnh đã gây cho đấu thủ cảm giác hoảng sợ khi ngọn roi kia đã được vót nhọn do chính nhát đao của mình lúc nãy. Lúc này Trịnh Hoàng Kế không tự chủ được nữa, và Hồ Ngạnh đã bằng thế "Ưng trảo quyền" đoạt thanh đao rất đẹp mắt trong tiếng reo hò cổ vũ của mọi người và sự cảm phục của đối phương.
Báu vật thiêng liêng ở một dòng họ võ
Bình Định là một trong những cái nôi của nền võ học chân truyền Việt Nam. Ngoài các làng võ, những dòng họ võ cũng là biểu hiện sống động của truyền thống đó. Trong những dòng họ này, vẫn còn lưu giữ nhiều tài liệu võ quý giá, mà một trong số đó là sách võ hiện đang được dòng tộc họ Trương (thôn Phú Thiện, xã Mỹ Hòa, huyện Phù Mỹ) giữ gìn.


Ông Trương Đức Hồng đang mở hộp gỗ lưu giữ cuốn sách võ.
Theo ông Trương Đức Hồng, người hiện đang lưu giữ cuốn sách võ này, thì ông tổ dòng họ Trương là Trương Đức Thường người xứ Thanh Hà, tỉnh Hải Dương vào khai sơn phá thạch ở vùng núi Ngạch (nay thuộc xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ) vào đầu thế kỷ thứ XVII (khoảng năm 1605). Sau đó mới đến định cư ở thôn Phú Thiện (xã Mỹ Hòa, Phù Mỹ) cho đến ngày nay. "Khi ấy, cả vùng đất quanh nơi này hãy còn là chốn rừng núi. Tổ tiên chúng tôi phải luyện tập võ nghệ để đương đầu với thú dữ và những hiểm nguy nơi vùng đất mới. Tôi nghĩ, đó là lý do mà tổ tiên chúng tôi biên chép và truyền tụng những thế võ trong cuốn sách này"- ông Hồng nói.
Cũng theo ông Hồng thì trong gia phả của dòng tộc để lại, dòng họ Trương có nhiều người học giỏi, thi đỗ cử nhân, cả văn lẫn võ và hầu như đều theo nghiệp văn chương và nghiệp võ. Như ông Trương Đức Giai, Trương Đức Lân, Trương Trạch... đều đỗ cử nhân võ. Trong đó, ông Trương Trạch chính là thầy dạy võ cho ông Trương Thanh Đăng, sau này làm chưởng môn phái Sa Long Cương (một trong những môn phái có ảnh hưởng lớn ở Nam Bộ). Còn căn cứ vào bài vị thờ ông Trương Đức Giai tại từ đường họ Trương, thì ông Giai chính là người biên soạn tập sách võ hiện vẫn còn lưu truyền trong dòng họ Trương.
Lập cập lấy từ bàn thờ gia đình ra một chiếc hộp gỗ, ông Hồng mở ra cho chúng tôi xem tập sách võ mà dòng họ Trương đã gìn giữ như một báu vật thiêng liêng. Tập sách nay chỉ còn 26 trang khổ nhỏ, bằng một nửa khổ sách thông dụng hiện nay, trong đó chép 15 bài thiệu bằng chữ Hán, 2 bài thiệu bằng chữ Nôm còn các trang tiếp theo đã bị mất hoặc bị rách. Các bài còn lại được viết theo thể thơ, trong đó có một số bài chưa truyền bá trong dân gian. Tuy nhiên, theo các tác giả của công trình Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc, đặc trưng võ cổ truyền Bình Định thì trong số các bài thảo trên, một số bài như bài Ngũ môn thảo, Trực chỉ thảo, Long đao thảo, Ô du thảo... trùng tên với các tư liệu đã sưu tầm và phát hiện ở các huyện trong tỉnh. Điều này chứng tỏ các bài thiệu phần nhiều có xuất xứ từ các vùng đất có truyền thống võ thuật lâu đời của Bình Định và những bậc tiền bối họ Trương đã có công sưu tầm, chắt lọc.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:44 am




Trang đầu của cuốn sách võ hiện lưu giữ tại nhà ông Trương Đức Hồng.
Điều đáng quý nhất là trong tập sách võ này có lời thiệu bài quyền Ngọc trản, một bài quyền hội đủ các yếu tố có tính cơ bản và là một trong những bài mang tính chính thống, tiêu biểu của võ Bình Định. Bài quyền hiện vẫn được lưu truyền và phổ biến rộng rãi trong dân gian với luyện tập công phu, tấn công toàn diện, kết hợp cương nhu, lại có những thế né tránh, phản đòn lợi hại; khi di chuyển thì linh hoạt, nhẹ nhàng, nhưng khi ra đòn thì mạnh. Với việc phát hiện ra bài thiệu, các nhà nghiên cứu mới nhận thức được tính liên hoàn âm - dương xuyên suốt cả bài quyền và chỉnh lý được những sai lầm do việc lưu truyền tam sao thất bổn trước đây. Bài thiệu quyền Ngọc trản đích thực là một viên ngọc quý trong tập sách võ của họ Trương.
Ông Trương Đức Hồng nay thuần chất lão nông ở cái tuổi 66. Chữ Hán ông không tỏ và thế võ ông cũng chẳng rành. Và đâu chỉ ông Hồng, cả dòng họ Trương ở Mỹ Hòa, nay chẳng ai biết võ hay luyện võ. "Họ Trương tụi tui nay lấy cái học làm đầu. Xưa học võ là để đấu tranh với cái ác, bảo vệ gia tộc nơi vùng đất mới, thì nay chăm lo sự học để lập thân, lập nghiệp với đời"- ông Hồng nói.
Quả vậy, họ Trương ở Mỹ Hòa nay có khoảng 35 hộ thì đã có trên dưới 30 người đã hoặc đang theo học đại học và có 3 người trong họ có học vị Tiến sĩ đang công tác ở các thành phố lớn. Phải chăng, chính truyền thống võ học từ xưa của dòng họ đã hun đúc cho ý chí học tập của người hôm nay. Ấy cũng chính là một cách tiếp nối truyền thống, dẫu là theo một hướng khác.
Nhưng điều tâm niệm nhất của những người trong họ cũng như những người nặng lòng với truyền thống đất võ Bình Định là tập tư liệu võ này sẽ sớm được dịch và giới thiệu rộng rãi. "Hồi mới giải phóng, ông Đặng Quý Địch từ Hoài Nhơn cũng vô xin sao chép lại để phiên dịch, rồi sau này, những người thực hiện đề tài về võ cổ truyền Bình Định cũng phô-tô lại. Nhưng mãi mà những tư liệu này vẫn chưa được dịch và chú giải đầy đủ"- ông Hồng tâm sự.
• Khải Nhân
Nét độc đáo của võ cổ truyền Việt Nam - Bình Định - Sa Long Cương
Chính thức ra đời từ năm 1964 do võ sư Trương Thanh Đăng sáng lập. Sau 41 năm hoạt động, môn phái võ cổ truyền Việt Nam - Bình Định - Sa Long Cương có nhiều chi nhánh tại thành phố và các tỉnh như: Quận 6, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh), Long An, Vũng Tàu, Biên Hòa,…
Không chỉ phát triển trong nước, Bình Định - Sa Long Cương còn có mặt tại các quốc gia khác trên thế giới như: Pháp, Mỹ, Canada và Ý với hơn 1.500 võ sinh theo học. Đặc biệt ở Ý, 80% võ sinh là người Ý và các nước khác.
Võ cổ truyền Bình Định - Sa Long Cương là môn võ trận, vì thế nó đòi hỏi võ sinh phải chấp hành nghiêm ngặt qui định của môn phái.
Đặc điểm của võ Bình Định - Sa Long Cương là lấy nhu thắng cương, các chiêu thức biến hóa khôn lường, không bó buộc cứng nhắc trong một bài quyền hay trong một chiêu thức. Khi đã tập luyện thuần thục, võ sinh có thể kết hợp chiêu thức của các bài quyền khác nhau để tạo ra chiêu thức mới, khắc phục nhược điểm và phát huy ưu thế của chiêu thức cũ. Vì thế môn võ Bình Định - Sa Long Cương ngày càng hoàn thiện hơn, mới hơn, phù hợp với thời đại hơn.
Các bài quyền của Bình Định - Sa Long Cương thoạt nhìn thấy rất phức tạp và có nhiều động tác nhưng khi bước vào phân thế, chiến đấu mới thấy tất cả các động tác không thừa, toát được cái hay của chiêu thức, của các thế đỡ, gạt hay tấn công.
Các chiêu thức khi luyện tập trông rất mềm mại nhưng khi tấn công vào đối phương thì rất mạnh mẽ, các chiêu thức của môn võ chủ yếu dùng nội lực là chính, các đòn thế làm cho đối phương không kịp trở tay. Chính đặc thù này mà võ cổ truyền Việt Nam - Bình Định - Sa Long Cương phù hợp cho cả nam lẫn nữ luyện tập. Tính mềm dẻo, và sự liên hoàn của động tác đã giúp cho các võ sư của võ cổ truyền ý tưởng tạo ra võ nhạc. Võ nhạc đã trở thành nét độc đáo của môn phái, đánh võ theo nhạc. Sự đa dạng, phong phú, uyển chuyển trong chiêu thức mà võ cổ truyền Việt Nam thu hút được nhiều môn sinh nước ngoài.
Tháng 4-2005, môn võ cổ truyền Việt Nam - Bình Định - Sa Long Cương được trường Đại học Hồng Bàng đưa vào chương trình đào tạo của trường. Sau 8 học kỳ luyện tập, sinh viên sẽ tốt nghiệp với cấp đai Hoàng đai Nhị Đẳng…
. Theo Võ sư Lê Văn Vân, Trưởng tràng võ đường Bình Định - Sa Long Cương tại TP.HCM
(Báo Khoa học Phổ thông)
Gìn giữ cho muôn đời sau
Miền đất võ Bình Định được thành hình qua một quá trình dài, gắn chặt với sự nghiệp của nhà Tây Sơn. Những làng võ hiện còn bên bờ sông Côn, chính là sự tiếp nối sống động của quá trình đó.
* Nét độc đáo của văn hóa làng võ Bình Định


Ai là người sẽ tiếp nối truyền thống các làng võ Bình Định? (Trong ảnh: Các môn sinh của võ sư Diệp Trường Phát trong ngày giỗ tổ)
Thời chúa Nguyễn, ở Đàng Trong, Bình Định là chốn phiên trấn, viễn châu, nơi lưu đày những tội nhân, cũng là chốn ẩn náu của bọn lục lâm. Người dân nơi đây phải biết những thế võ hiểm hóc để tự vệ. Đến nửa sau thế kỷ XVIII, đất Bình Định đã hình thành một dòng võ Tây Sơn rất đặc sắc. Võ Tây Sơn tập trung tinh hoa võ thuật sẵn có ở Bình Định, sáng tạo thêm để hoàn chỉnh một binh pháp võ với nhiều môn võ nghệ độc đáo, những thế đánh hiểm hóc, biến hóa và dứt điểm nhanh, góp phần vào thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn. Thời Nguyễn, do chính sách bình định của nhà Nguyễn, võ Tây Sơn giải hóa vào dân gian và đã thành hình rõ các làng võ.
Ở các làng võ, võ Tây Sơn tiếp tục hấp thu thêm nhiều tinh hoa võ thuật khác. Nhưng cái nền cho mọi sự tiếp biến vẫn là võ Tây Sơn. Có lẽ vì thế nên các làng võ dù giỗ tổ vào những ngày khác nhau nhưng đều thờ Quang Trung làm tổ võ. Ở đây có một điểm thú vị trong truyền thống võ Việt Nam là không phân hóa sâu thành các môn phái như võ Tàu, mà lại đi vào chiều sâu của văn hóa làng xã, hình thành nên các làng vật (phía Bắc) và làng võ như ở Bình Định (một số môn phái sau này hình thành muộn và phân hóa chưa thật sâu sắc, ít nhiều ảnh hưởng của võ Tàu). Lý giải điều này phải về với một hằng số của văn hóa Việt là làng Việt. Người Việt, vốn có truyền thống gắn bó với xóm làng, làng là một đơn vị cơ sở về văn hóa của tâm thức Việt. Võ đi vào "chiều sâu của văn hóa làng xã là tác nhân hình thành các anh hùng lịch sử, và do đó là nhân tố quan trọng của quá trình dựng nước và giữ nước" (Mai Văn Muôn chủ biên- Lịch sử võ cổ truyền Việt Nam). Cũng bởi không đặt nặng vấn đề hệ phái, nên có những võ sư là học trò của nhiều bậc thầy ở những làng võ khác nhau. Nhờ rút tỉa được tinh hoa nên "hậu sinh khả úy" ở làng võ Bình Định không phải là chuyện hiếm.
* Văn - võ nương nhau
Võ Bình Định, chưa nói đến thời Tây Sơn, chỉ xin tạm gói trong hai thế kỷ trở lại đây, sản sinh ra lắm võ nhân tài ba là vậy. Những Hồ Ngạnh, Hương Mục Ngạc, Tàu Sáu lớp trước rồi những Cai Bảy, Hương Kiểm Mỹ… tiếp đến Hà Trọng Sơn, Phan Thọ… lớp sau, cùng vang danh trên trời đất võ. Nhưng hiện tại, tuy thi thoảng cũng có những võ sư gặt hái được huy chương, giải thưởng này nọ, nhưng xét ra vẫn chưa có những gương mặt có thể sánh được với những cao thủ ấy. Ông Nguyễn An Pha, Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Bình Định, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu văn hóa phi vật thể về các làng võ cổ truyền Bình Định, nhận xét: "Ngày trước, người ta học võ cũng là học một nghề. Muốn xin vào học võ, cha mẹ phải đến thưa với thầy, rồi hẹn ngày cúng tổ, rồi ông thầy mới thâu nhận. Cũng bởi là một nghề nên người ta chuyên tâm học, có vậy mới nên được. Còn hiện nay, người ta học võ chủ yếu để rèn thể lực, mang tính thể dục- thể thao nhiều hơn, nên việc trau chuốt công phu không tránh khỏi sa sút".
Một điểm đặc biệt khác là trước đây, người ta học võ, không chỉ với mục đích ăn thua. Học võ trước tiên là học võ đạo. Người thầy trước khi thâu nhận đệ tử, phải quan sát rất kỹ, từ tâm đến tướng, nhìn xoáy, xem chỉ tay, xem đầu gối, nhìn mắt… thấy ưng ý mới truyền dạy. Người học võ cũng học thêm về văn. Nhiều võ sư nổi danh trước đây cũng rất chuộng văn chương. Võ sư Diệp Trường Phát là một ví dụ. Không chỉ giỏi võ, chuộng văn, võ sư còn là người làm thơ rất giỏi và rất am hiểu nghệ thuật hát bội. Văn võ phải nương nhau thì đạo làm người mới giữ được vững- quan niệm xưa là vậy và có lẽ bây giờ cũng vậy.
* Gìn giữ cho muôn đời sau
Nhìn làng võ từ cái nhìn văn hóa, chúng ta không khỏi âu lo trước sự mất dần những làng võ với những lò võ gia truyền, một nét độc đáo riêng của văn hóa làng Bình Định. Đáng lo nhất là hiện tại, người ta chỉ biết chuyên tâm vào 10 bài bắt buộc của quốc gia để thi đấu, trong khi những bài roi, thế quyền cùng 18 môn binh khí của võ Bình Định lại chưa được kế thừa một cách đầy đủ. Mà đây mới là "của kho vô tận" của võ cổ truyền Bình Định.
Chẳng hạn, roi thì làng võ nào cũng có, nhưng riêng võ sư Hồ Ngạnh thì có những thế do ông sáng tạo ra, tức là những thế ngược, nên ông nổi danh về roi là vậy. Những thế ấy, ông cũng có truyền lại cho con cháu, nhưng cũng chưa người nào được như ông. Ngay trong quyền thuật, thảo bộ Tiên ông trong gia phái Hồ Ngạnh đã có 32 động tác rất phức tạp, ít đá, hầu hết dùng tay tấn công, với những chiêu thức đánh nghịch từ bộ hạ lên rất nguy hiểm. Còn về 18 môn binh khí thì võ sư Phan Thọ từng tâm sự: "18 môn binh khí có 9 cái song đấu thì hồi giờ tui mới truyền được một. Mà 9 song đấu này mới khó, cái gì đấu với cái gì cho ăn khớp, rồi phải luyện rất nhiều... Cả những bài thảo của từng môn binh khí nữa. Vậy mà tui năm nay thì tuổi đã 80 rồi, không chừng chỉ nay mai xuống lỗ rồi... chỉ mong có điều kiện, cơ hội để truyền dạy lại hết. Không thì uổng lắm".
Bảo tồn những làng võ, cũng như bảo tồn những làng tuồng, làng bài chòi, cũng chính là bảo tồn những nét độc đáo của truyền thống văn hóa làng Bình Định.
. Lê Viết Thọ
An Thái: Bến sông hội tụ anh tài
Bên kia sông, đối diện làng An Vinh là làng võ An Thái (xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn). Băng qua chiếc cầu tre nối liền giữa hai làng võ, tôi muốn được một lần nhìn bến sông An Thái, để có thể mường tượng những ngày sầm uất trên bến dưới thuyền. Chợt nhớ có chiếc thuyền đã chở thầy giáo Hiến một chiều ghé bến...
* Hội tụ anh tài


Võ sư Lâm Ngọc Phú.
Bây giờ, chẳng thể lần ra chút di tích nào nơi thầy giáo Hiến quyết định ở lại lập nghiệp trên đất An Thái. Chỉ biết, khi ấy, ông quyết định chọn một gò cao nhìn xuống dòng sông Côn uốn khúc, ươm trồng những hàng cây cổ thụ, rồi lập trường luyện võ, dạy văn. Ba anh em Tây Sơn đến xin nhập học được ông thâu nhận.
Truyền thống võ nghệ của An Thái được hun đúc qua những bước thăng trầm của thời gian và binh biến. Sang thế kỷ XIX, vùng đất này đã đón tiếp nhiều người Hoa, trong đó, có các võ sư và dần hình thành hai phái: phái người Việt của cụ Đoàn Dũ và phái người Hoa của ông Khánh Ngôn bảo trợ. Nhưng đến giữa thế kỷ XIX thì cả hai đều tàn lụi.
Có cơ duyên là nơi hội tụ, An Thái đã hun đúc tinh hoa võ nghệ nhiều phái võ. Rồi hàng năm, vào các dịp vui xuân, các lò võ lại cùng dựng trường đài thách đấu. Hội đổ giàn được tổ chức 4 năm một lần vào các năm tỵ, dậu, sửu; luân phiên tại các chùa: bà Chúa Thai sanh, bà Hỏa, Hội quán và sau này được dời ra bãi cát sông Côn. Đây là dịp cho các môn sinh đất võ học hỏi và rút tỉa những tinh hoa võ thuật của nhiều môn phái khác mà rèn đúc, nâng cao võ nghệ.
* Tổng hợp tinh anh
Đầu thế kỷ XX, có một biến cố với làng võ An Thái là sự xuất hiện của phái quyền Tàu mà ông Diệp Trường Phát (thường gọi là Tàu Sáu) là người khai mở. Tàu Sáu sinh năm 1896, là người Hoa nhưng bà nội và mẹ ông là người Việt. Ở quê mẹ, Tàu Sáu đã hấp thụ tinh thần thượng võ. Năm 13 tuổi (1909), ông được gửi về Tàu, rồi sang Hồng Kông học. Sau 15 năm, ông Tàu Sáu lúc này đã 28 tuổi, quay lại An Thái và mở trường dạy võ hơn 40 năm, cải tiến tinh hoa võ thuật lâu đời, nhiều phái, trên quy mô tổng hợp, hiện đại, xây dựng một hệ thống quan niệm về võ thuật và võ đạo khá sâu sắc. Về mặt tinh thần, cụ Tàu Sáu lấy "Ngưu giác chỉ" làm biểu tượng của môn phái.
Cụ Tàu Sáu đã đào tạo được nhiều đệ tử nổi danh như Ba Phùng, Chín Kỷ, Phó Tuần Chuẩn, Năm Tường. Năm Tường vốn là hảo thủ Nam Kỳ từng bất phân thắng bại với A-bu-đu (một võ sĩ hạng nặng của Pháp có lối luyện võ rất dã man, tương truyền là mỗi sáng dùng tay không đấm chết hai con bò mộng). Nhưng khi Năm Tường ra Bình Định thụ giáo cụ Tàu Sáu một thời gian trở về thì A-bu-đu sợ, không dám nhận lời tái đấu và tự rút lui khỏi các đấu trường Đông Dương. Một võ sĩ tài năng khác là Kim Anh cũng đã từng được cụ Tàu Sáu chỉ giáo mà thành danh trên các võ đài quốc tế, góp phần làm rạng rỡ cho xứ An Thái nói riêng và đất Bình Định nói chung.
Khi cụ Tàu Sáu mất, con trai cụ là Diệp Bảo Sanh nối nghiệp. Năm 1971, đổi tên là phái Bình Định - An Thái, gọi tắt là phái Bình Thái. Hiện nay, võ phái này được các đệ tử lớp sau của Diệp Bảo Sanh tiếp tục truyền dạy tại nhiều nơi.
Nhưng ngoài phái cụ Tàu Sáu, An Thái còn có nhiều người học võ nổi tiếng khác như ông Lài, ông Chín Chung, ông Lâm Bình Sơn, hoặc ông Ấm Hổ... Về nữ giới, có bà Đào Thị Sanh là người đầu tiên mở lò luyện võ cho phái nữ ở xứ này.
* Của tin còn lại
Tôi tìm được ngôi nhà cũ của võ sư Diệp Trường Phát, ở chếch bên kia chùa bà Hỏa đã đổ nát. Ngôi nhà không có người ở, chỉ còn bộ khung mang theo dấu ấn một thời. Anh Tạ Văn Trúc, cháu rể của cụ Tàu Sáu, nói: "Vào ngày 18 tháng giêng, giỗ tổ, con cháu, học trò mới hội về đông". Truyền thống võ học của dòng họ Diệp nay ở An Thái chẳng còn mấy ai kế nghiệp. Tại đây, hiện chỉ còn hai người học trò của ông là Bảy Quang và Năm Thân. Họ học võ chỉ thuần một niềm đam mê, không xem như một nghề.


Cầu nối giữa hai làng võ An Vinh - An Thái.
Theo võ sư Lâm Ngọc Phú, võ đường Bình Sơn, thì những năm sau giải phóng, An Thái vẫn còn bốn lò võ lớn là Bình Sơn, Hải Sơn, Quách Cang (tức phái Tàu Sáu) và Hồ Hoành. Nhưng nay, trên đất An Thái còn duy nhất võ đường Bình Sơn. Võ sư Phú là con của lão võ sư Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài). "Ông nội tôi là người đã học võ, rồi ông thân tôi vừa học võ của gia đình, vừa học thêm cụ Tàu Sáu. Ông cụ kết hợp hai nguồn võ Tàu, võ ta như vậy nên khi mở võ đường ở Quy Nhơn lấy tên là Bình Sơn với ý võ Bình Định - Tây Sơn"- võ sư Phú tâm sự. Võ sư Phú học võ từ nhỏ, 35 tuổi lên đài để lấy bằng võ sư, gặp một võ sư taekwondo từ miền Nam ra. Suốt cả hiệp đầu, ông chỉ tìm cách né đối thủ để quan sát. Biết đối thủ chỉ giỏi đòn chân, trong giờ giải lao, ông nghĩ cách để đối phó. Sang hiệp hai, ông dùng thế Mạnh Lương đoạt ngựa, hốt đối thủ quăng vào một góc sàn đài, rồi bay đến giáng một đòn vào khủy tay. Đối thủ chịu bại…
Tiếp nối võ sư Phú, Lâm Ngọc Oanh, Lâm Ngọc Ánh, những người con của ông, cũng đã gặt hái những thành tích bước đầu trên con đường võ học bằng những huy chương, giải này giải nọ. Cả mấy đứa cháu nội, ngoại mới hơn chục tuổi, cũng được ông cho học thêm về võ. "Tui chỉ dạy để truyền thống võ nghệ gia đình không mất, cũng là để rèn sức khỏe, hộ thân, còn chẳng đứa nào theo nghề võ cả"- ông nói.
. Lê Viết Thọ
"Truyền thuyết": gái An Vinh
Một cô gái liễu yếu đào tơ, vậy mà có thể hạ hàng chục địch thủ mà không mấy nhọc sức. Hẳn đó cũng là một lý do để có câu ca: "Ai về Bình Định mà coi/ Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền". Roi thì nổi tiếng với roi Thuận Truyền, còn quyền thì phải nói đến làng võ An Vinh (xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn)...
* Gái An Vinh


Biểu diễn võ vào ngày giỗ tổ võ tại Võ đường Phan Thọ.
Người con gái hạ hàng chục đối thủ đó, không ai khác hơn chính là Tám Cảng, con gái cưng của cụ Hương Mục Ngạc, một trong những võ sư nổi danh của đất An Vinh. Tám Cảng nổi tiếng đẹp, giỏi võ nhưng đã hăm hai tuổi vẫn chưa lấy chồng. Cụ Hương Mục Ngạc hẹn: ai trị nổi Tám Cảng mới được lấy làm chồng. Khốn thay, Tám Cảng đã thử sức nhiều võ sĩ, thuộc các môn phái khác nhau nhưng chưa hề thất bại. Có ba người bị cô đá văng tuốt từ giữa sân ra hàng rào cây duối. Một hôm, anh Dư Hựu, người làng Tiên Thuận, đến xin đấu. Dư Hựu bị Tám Cảng đạp vô bể cá cảnh. Vậy là Dư Hựu về học võ một năm, rồi quay lại xin thử sức lần nữa. Lần này thì Tám Cảng bị vứt trả vô bể cá năm trước...
Lại có lần, Tám Cảng sang đất An Thái để xem hội Đổ giàn, bị một số con trai trêu ghẹo. Nổi cơn lôi đình, Tám Cảng tát cho tên có ý định sàm sỡ một bạt tai rồi đạp hắn ngã lăn kềnh. Đám thanh niên xông vào đánh, Tám Cảng đành dùng quyền cước. Mỗi lần Tám Cảng đưa chân là một đứa con trai lăn luôn mấy vòng...
Cô Tám đã đi vào huyền thoại trong làng võ của đất Tây Sơn như là một võ sư tên tuổi. Sau này, phái yếu hình như vẫn chưa có ai nối nghiệp được.
* Quyền An Vinh
Tám Cảng chỉ là một trong nhiều câu chuyện truyền tụng về truyền thống võ học của làng võ An Vinh. Theo dấu truyền thống ấy, tôi ghé nhà võ sư Trần Dần. 68 tuổi, võ sư vẫn còn đi chận bò ở gần nhà. "Tui đã dạy võ cho không ít học trò, nhiều trò mở lò riêng các nơi, nhưng chẳng bao giờ tui sống được bằng nghề võ. Chủ yếu là làm nông. Ngay làm thuốc võ cũng vậy, ai trật đả, bị đánh, bị té đều ghé tui, nhưng tui làm cũng chỉ để cứu người"- ông hồn nhiên giải thích.
Võ sư Trần Dần được học võ từ năm 17 tuổi đến năm 20 tuổi với Hương Kiểm Mỹ. Hương Kiểm Mỹ lại chính là một học trò cưng của Hương Mục Ngạc. Người ta kể, tổ cô của Hương Mục Ngạc lại là sư phụ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Hương Mục Ngạc đã thông quyền Bình Định, lại học thêm quyền Tàu của ông Khách Bút ở vùng Cảnh Hàng (Nhơn Phong). Do tổng hợp được nhiều nguồn khác nhau, Hương Mục Ngạc trở thành một tay quyền xuất sắc nhất trong làng võ đương thời, và làm sống lại truyền thống của quyền An Vinh. Ngoài Tám Cảng, Hương Mục Ngạc còn có hai người con khác là Bảy Lụt và Chín Giác đều tinh thông võ nghệ. Ông còn dạy nhiều học trò, ngoài Hương Kiểm Mỹ, nổi tiếng nhất là Hai Tửu.
Hương Kiểm Mỹ cũng cùng lứa với Hai Tửu, Bảy Lụt. Tên thật của ông là Đinh Hề, thuộc dòng dõi của Đinh Văn Nhưng, tức ông Chảng, một võ sư nhà Tây Sơn xưa. Hương Kiểm Mỹ giỏi cả quyền và kiếm, tài năng không thua kém sư phụ là mấy, đã góp phần phát triển quyền thuật An Vinh lên một bước mới: Đi như lá, cứng như đá, công thủ đi liền, sao sao cũng vậy.
Ngoài lò võ của cụ Hương Mục Ngạc, An Vinh còn có các trường võ khác. Nay, những trường võ ấy đã vắng bóng. Trong làng, chỉ còn võ sư Văn Xuân Ngọc, người kế thừa trường võ của Xã Nho. Gặp võ sư Ngọc tầm trời trưa, khi ông đã hơi... ngà ngà, nhưng nghe chuyện võ, mắt ông sáng hẳn lên.
Quyền An Vinh vang danh trên trời đất võ bởi có những võ sư vừa tinh thông võ nghệ, vừa có sức mạnh hơn người, như vậy.
* Đại thụ hiện còn của làng võ
Võ sư Trần Dần kể về lý do đưa ông đến với nghiệp võ: "Gia cảnh nhà tôi hồi đó mẹ góa con côi, đi học võ là để người ta khỏi chèn ép, chứ có mong chi đánh đấm. Mà nếu có học võ chỉ với mục đích đánh đấm thì chẳng thầy nào nhận dạy. Tui còn nhớ, hồi xưa, xin vào học thì cha mẹ phải đến thưa, lại hẹn ngày cúng tổ bái sư, rồi thầy mới cho vào tập. Thầy dạy lải lải trong chục ngày đầu, chấm người nào tốt tính ưng ý, mới giữ để trao truyền, còn thì đuổi dần hết. An Vinh là đất làm nông nên thường tập buổi tối. Cữ những mùa trăng, tầm 7 giờ tối là bắt đầu học, đến 10, 12 giờ là mãn. Đầu tiên tập các thế ngũ hành trước, mỗi thế tập trong 10 ngày, xong mới qua thế khác. Nhờ xây cái móng kỹ vậy nên đến giờ, già rồi nét tui đánh vẫn được".
Truyền thống làng võ là vậy. Học võ nhưng chẳng mấy ai mặn mà chuyện hơn - thua. Có lẽ do vậy, trong thời cuộc hôm nay, truyền thống ấy ẩn mình thật sâu trong những nếp nhà bình dị, ở những người như ông Trần Dần, như ông Văn Xuân Ngọc, như những lứa học trò hay con, cháu họ, âm thầm tập luyện, chỉ mong kế thừa một truyền thống của ông cha.
Nhưng nói đến võ An Vinh mà không nói đến lão võ sư Phan Thọ (hiện ngụ ở thôn Thủ Thiện Thượng, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn) thì quả là một sai lầm. Đây là một huyền thoại đất võ. Võ sư sinh năm 1926, học võ từ năm 18 tuổi, đầu tiên bái cụ Bảy Lụt làm thầy. Năm 24 tuổi, sau khi đã tinh thông những bài bản cao thâm của thầy, dù đã lập gia đình và sinh đứa con trai đầu lòng, ông vẫn theo học thêm thầy Sáu Hà, Tàu Sáu, Hồ Ngạnh, toàn những võ sư danh tiếng thời ấy. Học võ 20 năm ròng, có bận, trong nhà không kiếm đâu ra một đồng để theo học, ông về nhà bàn vợ... dắt bò đi bán (!). Võ sư Phan Thọ trở thành một trong những người hiếm hoi tinh thông thập bát ban binh khí. Ngoài ra, ông còn áp dụng thông thạo các loại vũ khí hiếm gặp, vốn chỉ lưu truyền ở dân bản địa Tây Sơn mà dân gian gọi nôm na là "võ thế", "võ vườn" như võ đòn sóc (đòn gánh hai đầu nhọn), võ bồ cào (chĩa ba mũi nhọn)… Và những câu chuyện võ sư Phan Thọ quần thảo với heo rừng, đánh bại võ sư ngũ đẳng huyền đai Taekwondo người Hàn Quốc… vẫn được truyền tụng trong niềm tự hào của người đất võ.
Tháng Giêng rồi, lễ giỗ tổ võ được tổ chức ở nhà võ sư Phan Thọ. Có dịp ghé qua, may mắn tôi được gặp những thế hệ học trò của võ sư tìm về. Nghe chuyện của lão võ sư, nhìn những thế hệ học trò của ông thao diễn, tôi hiểu, truyền thống võ An Vinh chẳng mất, mà đã hóa thân vào những thế hệ võ sinh hôm nay, không chỉ trên đất An Vinh, cả trong niềm tự hào thẳm sâu của mỗi người dân Bình Định.
. Lê Viết Thọ
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:46 am


Thuận Truyền: vang danh những đường roi
Làng võ Bình Định là một nét độc đáo riêng trong truyền thống văn hóa Bình Định. Trong đó, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn vốn là một vùng quê khoai sắn, ấy vậy mà nơi đây lại vang danh bởi cái tên Thuận Truyền với lời truyền tụng: "Roi Thuận Truyền - quyền An Vinh..."
Phải lò dò vào những ngách nhỏ ngoằn ngoèo, vun đầy cát ở làng Hòa Mỹ, mới tìm được ngôi nhà xưa của võ sư Hồ Nhu (thường gọi là Hồ Ngạnh). Trước nhà, một mái hiên lợp tôn thông thống bốn phía. Võ sư Hồ Sừng, cháu nội võ sư Hồ Nhu, năm nay đã 65 tuổi, cho biết: "Tui mới cất năm ngoái để tập võ vào mùa mưa, còn như mùa hè thì tận dụng luôn cả hai khoảnh ruộng làm sân tập".
* Từ huyền thoại làng võ


80 tuổi, đường roi của võ sư Hồ Nhu vẫn cứng cáp.
Roi Thuận Truyền xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng võ sư Hồ Nhu được xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một võ quan triều Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà võ. Chuyện xưa kể, một lần do bị bức hiếp, Hồ Nhu đã đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng. Ông Hương Kiểm xách gậy đi tìm, đòi đánh ông. Mẹ ông đã giở ngay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù tận ngõ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện võ. Nhưng theo võ sư Hồ Sừng, hồi bé, võ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy võ. Ông phải tìm học ở nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ, tiếp đến học roi của Hồ Khiêm và theo Quách Tấn - Quách Tạo thì ông còn được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ võ) truyền dạy thêm. Khi đường roi đã cứng cáp vì kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường.



Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, học trò đến thọ giáo rất đông. Quá 80 tuổi, Hồ Nhu vẫn còn thao diễn roi, đường roi vẫn cứng và đẹp. Con trai mất sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, là võ sư Hồ Sừng hiện nay. Võ sư Hồ Sừng kể: "Bao giờ thâu nhận học trò, ông cũng thử trước rồi dạy sau. Học trò ông có Mười Mỹ, Đinh Văn Tuấn, Năm Tạo, Sáu Được... đều đã có danh có tiếng, trong xã thì có Lê Thành Viên, thường gọi Ba Hào, và Lê Bá Cừu, tức Sáu Dật. Mà yêu cầu của ông với học trò, kể cả con cháu trong nhà cũng vậy, cao lắm".
Năm nay đã 90 tuổi, võ sư Lê Thành Phiên (làng Đại Chí, xã Tây An) vẫn minh mẫn. Ký ức ông vẫn vẹn nguyên hình ảnh người thầy vóc người cao to, dạy học trò rất nghiêm: "Thầy dạy ngày ba buổi. Thầy dạy kỹ, nhưng trò phải tập cho tinh. Nhờ vậy nên tui học kể ra thì cũng hổng nhiều, đâu có 18 tháng, nhưng cũng được truyền dạy cơ bản". Lão võ sư có vẻ hơi buồn, chẳng là vài năm gần đây, tuổi cao, nên giỗ tổ chẳng thể lên nhà thầy.
* Đến đường roi bí truyền
Roi là một loại binh khí tiêu biểu của võ Bình Định. Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Nhiều võ đường ở Bình Định rất giỏi về roi như: Lâm Ngọc Phú, Bửu Thắng (An Nhơn); Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái võ ở chùa Long Phước (Tuy Phước); Phan Thọ (Tây Sơn)…
Người thầy dạy của võ sư Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi "lạc côn", cũng là một đường roi tuyệt kỹ. Rồi các đường roi như: "đâm so đũa", "roi đánh nghịch", "đá văng roi", "phá vây", "roi chiến"… đều là những bảo vật bí truyền của võ Bình Định.


Võ sư Hồ Sừng, cháu nội cụ Hồ Nhu, tiếp nối truyền thống võ học gia đình.
Một bài roi gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác là các đòn thế tấn công và phòng thủ theo các phách cơ bản như: bát, bắt, triệt, chận (nặng về thủ để triệt phá các đòn tấn công của đối phương); hoành, khắc, lắc, tém (vừa thủ vừa công). Thủ ở đây không có nghĩa thụ động, mà phải dùng các phách hợp lý để triệt tiêu đòn tấn công đối phương rồi ra đòn tiêu diệt đối phương. Hay có thể giả vờ trá bại, dụ đối phương vào thế. Có lúc phải dùng trừ công để thủ tức là khi đã trừ được các đòn tấn công của đối phương, phải thủ cho kín chặt, không cho đối phương ra đòn tấn công tiếp, rồi phán đoán nhanh xem đối phương phản ứng để có đối sách...
Mỗi môn phái ở Bình Định có các đòn roi bí truyền nhưng đường roi Thuận Truyền vang danh nhất. Cái bí truyền của những đường roi đã đi vào những câu chuyện truyền tụng, thật - hư lẫn lộn...
* Bảo tồn một nét văn hóa
Cả làng Thuận Truyền hiện tại không còn lò võ nào. Riêng ở làng Hòa Mỹ, vốn cùng trong tổng Thuận Truyền xưa, còn duy nhất lò võ của võ sư Hồ Sừng. "Thật ra, tui cũng chẳng còn dạy được mấy. Hiện giao cho con trai là Hồ Cương đứng lớp. Riêng những ngày hè học sinh học rất đông, tui phải huy động cả 6 thằng con trai về đứng lớp"- võ sư Hồ Sừng nói. Truyền thống xưa của một làng võ vậy là chỉ nương lại ở một lò võ nằm ở nơi ngách sâu nhất của những đường làng.
Mời võ sư Hồ Sừng ra thao diễn bài roi Thái Sơn. Cắp cây roi bên hông, võ sư nói: "Chú xem thì thấy khác đấy. Bài roi này so với bài quy định của Sở TDTT, thiệu thì như nhau nhưng nét đánh vẫn khác. Có người nhận xét là dễ coi hơn, nhưng biết làm sao, người ta đã quy định rồi...".
. Lê Viết Thọ
Huyền thoại đất võ Tây Sơn
Đạo cao long hổ phục - Đức trọng quỷ thần kinh, là câu mà giới võ học đề tặng võ sư Phan Thọ, nhân vật truyền kỳ đất võ Tây Sơn. Cuộc đời ông gắn liền với tinh võ cổ truyền từng xuất lộ từ buổi đầu khởi nghiệp của các đấng minh quân. Vị võ sư thuộc hàng cao thủ này sau bao năm thăng trầm cùng nghiệp võ vẫn trụ vững hiên ngang như một huyền thoại không thể nhạt nhòa...
* Ba làng võ nổi danh từ thuở khai sơn mở cõi


Võ sư Phan Văn Sơn (con trai lão võ sư Phan Thọ) đang biểu diễn Hùng kê quyền (ảnh: Viết Thọ)
Dẫu lão võ sư đã tròn tuổi 80, nhưng tâm huyết về nghiệp võ vẫn chưa hề nguôi ngoai. Võ sư Thọ kể rằng, An Vinh, Thuận Truyền, An Thái vốn là ba làng võ nổi danh từ những buổi đầu khai sơn mở cõi, từng xuất hiện nhiều anh tài lẫy lừng nghiệp võ biểu trưng cho cả một vùng đất qua những câu ca xưa "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hay là "Trai An Thái, gái An Vinh"...
Làng An Vinh nằm ven bờ Bắc sông Côn thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn. Những cư dân đầu tiên đến đây trong cuộc hành trình tìm nơi an cư lập nghiệp nhưng lại rất đam mê nghiệp kiếm cung. Khoảng những năm 1940, có nhiều võ sư tinh thông võ nghệ như Hương mục Ngạc, Cai Bảy (Cai Kềnh), Kiểm Mỹ, Hộ Hải, Hai Điển, Tàu Sáu... vang danh khắp xứ. Cũng trong khoảng thời gian này, làng võ Thuận Truyền (nay thuộc xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn) khẳng định tên tuổi của mình bằng những bài roi thiên biến vạn hóa mà sư tổ là Hồ Ngạnh. Tương truyền, An Thái bấy giờ (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn) là trung tâm huấn luyện võ thuật thuộc phái võ Tàu. Ba anh em nhà Tây Sơn - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ từng đến đây thọ giáo võ công... Hiện nay, những làng võ này vẫn còn tồn tại các võ đường nhưng võ sinh thì ngày một thưa dần. Người đam mê nghiệp võ chân truyền ngày càng hiếm.
* Bán bò... học võ
Đâu đó trong căn nhà nhỏ phủ bóng rêu phong nép mình hiền hòa bên cánh đồng xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn vẫn còn hiển hiện quá khứ oai hùng những năm tháng miệt mài khổ luyện võ công của huyền thoại đất võ Phan Thọ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, quanh năm tảo tần với ruộng đồng. Thuở nhỏ, ông từng đi chăn thả trâu, bò và làm lụng đủ việc. Ngoài chuyện đêm ngày lo cơm áo gạo tiền, gia đình ông chẳng ai màng đến chuyện theo đuổi nghiệp võ. Như có một mối cơ duyên, cậu bé họ Phan đã nung nấu niềm đam mê lĩnh hội tinh hoa võ học cổ truyền, để rồi tên mình sau đó gắn liền với nhiều giai thoại.
18 tuổi, võ sư Phan Thọ quyết chí tầm sư học đạo. Ông đã tự mình tìm đến những danh thủ uyên thâm võ học, tâm quán thiên thu thỉnh giáo kinh công với lòng ngưỡng phục của kẻ hậu bối. Chặng đường tầm sư của ông cũng lắm truân chuyên. Ông bảo, thời ấy việc truyền dạy võ công chỉ theo tục cha truyền con nối hoặc là anh truyền dạy cho em. Với người ngoại tộc, việc truyền thụ dường như rất khó, họ lo sợ những kỳ công gia truyền không còn giữ được vị thế độc tôn. Hơn nữa, người ta kháo nhau là "giàu học võ, khó học văn" mà. Tâm sáng ắt sẽ cảm được tình sâu. Ông vẫn trì chí ấp ủ ước nguyện, thế là các bậc cao thủ thâu nhận ông làm môn sinh cật ruột, đêm ngày truyền thụ võ công.
Bước vào con đường khổ luyện võ học suốt 18 năm đằng đẵng, ông kinh qua sở học của 7 bậc cao thủ đương thời thông tuệ thập bát ban binh khí. Ở An Vinh, ông học thầy Cai Bảy, thầy Sáu Hà; qua An Thái học cụ Tàu Sáu; lên Thuận Truyền thỉnh giáo côn thuận của cụ Hồ Ngạnh... Kiên tâm khổ luyện, võ sư Phan Thọ lĩnh hội được những chiêu thức tuyệt kỹ của môn phái Tây Sơn như: quyền pháp Ngọc Trản, Tiên Ông, Thần Đồng, Bát Quái, Ngũ Hành, Lão Mai; đao pháp Siêu xung thiên và Siêu công; côn pháp Bát quái, Thấp bộ Xà đản... Võ sư Thọ nhớ lại, hồi đó nhà có 3 con bò chuyên phục vụ cày, kéo. Vì không có lễ vật bái tổ và trả ơn cho thầy, ông phải năn nỉ hai cụ thân sinh bán bớt 2 con. Cũng may là các cụ mủi lòng đồng ý, nghiệp võ nhờ đó được thuần thục.
* Chế ngự cao thủ nước ngoài
Tỉnh Bình Định hiện có 10/11 huyện, thành phố thành lập chi hội võ cổ truyền với gần 100 phòng tập và CLB võ thuật cơ sở hoạt động. Bên cạnh đó, còn có Hội võ cổ truyền trực thuộc Liên đoàn võ thuật quản lý trên 80 võ sư, chuẩn võ sư, huấn luyện viên và thường xuyên có trên 1000 võ sinh. Thế nhưng ngày càng hiếm dần những võ sĩ lĩnh hội thuần thục tinh võ cổ truyền.
Sau gần 20 năm vun bồi công phu thượng thừa cùng với mẫn cảm võ học thiên phú giúp ông trở thành một trong những "đấu sĩ" hàng đầu trên các võ đài thuở ấy. Giờ ở tuổi 80, ông không nhớ hết những lần đăng đài sinh tử khắp miền đất nước. Trận đấu khẳng định vị thế võ cổ truyền Tây Sơn diễn ra vào năm 1972. Lúc này, ông đã bước qua tuổi ngũ tuần nhưng đã hạ gục một tên sĩ quan mang đai đen ngũ đẳng taekwondo thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ của Nam Triều Tiên trước sự khâm phục của hàng vạn người. Ông khoái chí: "Lần đầu tiên chạm trán với một thứ võ lạ của ngoại quốc, tui cũng ngại lắm. Xung trận kịch liệt, đôi bên đều tung chiêu thức hòng "kết liễu" đối thủ. Gần cuối trận đấu, đối phương tung một đòn đá vòng cầu ngang mang tai của tui. Thấy vậy, tui áp dụng bí quyết "Tấn đả tam chiến" của quyền pháp Ngọc Trản, nhập nội một chân gài, một chân "quét ngựa", một tay đỡ đòn đá, một tay xòe hổ trảo tấn công vào đan điền của hắn theo tuyệt kỹ chính xác và linh hoạt "hạ địa tầm châu" của thảo bộ "thiền sư". Thế là viên sĩ quan bị "nốc ao"...! Rồi mới đây, vào năm 1998 - khi ông đã bước qua tuổi thất thập, một đoàn võ sĩ Hàn Quốc lại tìm đến tận nhà. Họ thách đấu nhằm hạ bệ uy thế của võ cổ truyền. Tui đã già rồi, chẳng màng gì chuyện hơn thua. Họ tự cao rằng, võ cổ truyền gì mà chưa đánh đã thua! Nghe vậy, máu yên hùng sôi lên trong người. Tui nhận lời so tài. Tụi nó trẻ, khỏe, ra đòn vun vút như tên bắn. Tui vận dụng những đòn thế "võ vườn" để chống trả. Đối phương vận hết sức mạnh bình sanh, tung hàng chục cú đá sở trường karatedo như trời giáng nhắm vào người tui. Cú đá cuối cùng "lạc hướng" trúng phập cột trụ hiên trước nhà, làm nứt một đường lớn, bụi vôi vữa rơi lả tả xuống sân. Tôi chớp thời cơ, quét chân hạ gục đối phương. Lập tức, họ chắp chắp tay bái phục: "Đúng là võ Tây Sơn danh bất hư truyền!", và ở lại Bình Định hai tuần nhờ tui chỉ giáo".
* "Song đấu" với heo rừng
Lão võ sư này "để đời" không chỉ chuyện bán bò học võ, làm rạng danh môn phái trước các cao thủ nước ngoài mà giai thoại "song đấu" với đàn heo rừng, có con nặng hơn trăm ký được người đời truyền tụng cũng là chuyện hy hữu, có một không hai ở xứ này. Chuyện trò cùng chúng tôi, ông khoe bộ nanh chiến lợi phẩm dài gần nửa gang tay mà ông lưu giữ hơn 50 năm qua. Những năm giặc Pháp chiếm đóng quê ông, tiếng súng đạn đì đùng suốt ngày khiến lũ heo rừng hoảng sợ dạt ra càn phá ruộng lúa, ruộng mía của bà con. Một hôm, bà con phát hiện một con heo rừng nấp trong một lùm cây ven đồng. Hàng chục thanh niên trai tráng giỏi võ trong làng bủa vây vòng trong vòng ngoài, tay dao tay cuốc xông vào hạ con mãnh thú. Nhưng rồi đều bị nó húc tơi tả. Được tin, võ sư Phan Thọ tức tốc đến giải cứu. Ông kể, phải quần thảo liên tục suốt ba bốn giờ đồng hồ với con heo dữ trong trận thế sáp lá cà, gãy gần chục cây trường côn và vận dụng tuyệt kỹ hồi đầu yểm nguyệt mới hạ gục được nó.
* Những người trẻ yêu võ Việt Nam
Cũng như hơn 60 năm về trước, cơ duyên đã đưa ông đến với những cao thủ võ lâm. Thì nay, trong căn nhà nhỏ ấy cũng đang hiện tiền hai kẻ hậu bối vốn là anh em ruột tự tìm tới học đạo từ một mảnh đất xa lơ xa lắc cách hơn ngàn cây số mà ông cũng chưa từng biết đến trước đó. 28 tuổi, Lưu Hồng Loan quê ở huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ ngưỡng phục tài năng võ học của võ sư Phan Thọ, đã rời xa gia đình cất công lặn lội vào đất võ Bình Định "tầm sư". Anh bảo, tìm đến sư phụ Phan Thọ cũng chỉ vì say mê tinh hoa võ cổ truyền; hơn nữa là người Việt Nam thì phải tiếp thụ võ Việt Nam chứ. Ai cũng cứ đua nhau đi học võ của nước ngoài thì vốn quý của ông cha để lại làm sao truyền giữ nguyên vẹn được! Đã 3 năm, kẻ hậu bối họ Lưu "ăn dầm nằm dề" hí húi cùng võ sư Phan Thọ khổ luyện võ học. Hồng Loan là người duy nhất được thầy truyền thụ lại các chiêu thức của thập bát ban binh khí và anh đã biểu diễn khá thuần thục 18 món binh khí ấy. Dẫu vậy, anh Loan khiêm tốn bảo là chỉ mới "ngửi thấy võ", chứ biển học còn rộng dài lắm. Sau khi xuất ngũ, Lưu Hồng Thuận, người em út trong nhà cũng nối gót theo anh. Được võ sư Phan Thọ chỉ giáo, hai người anh em lại tiếp tục cùng nhau luyện tập chiêu thức võ công thuộc về phần song đấu. Mỗi ngày, ngoài việc sáng tối thỉnh giáo võ công, hai anh em Loan - Thuận xắn tay áo ra đồng chăm bón, rồi cả thu hoạch ruộng lúa cho sư phụ, rảo quanh khắp cánh đồng trước nhà lượm lặt ốc bưu vàng về làm cơm... Anh tâm sự đã là con cái trong nhà của võ sư Thọ rồi, đến dịp Tết mới xin thầy về lại thăm quê một lần. Quả là hành trình đến với cội nguồn võ học cũng lắm gian truân.
. Theo Thanh Niên
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:47 am

Phi Long bí truyền
Nhà chật, tôi vẫn nài võ sư Trương Văn Vịnh (thường gọi Phi Long Vịnh) đi một bài quyền. Cất vội điếu thuốc đang hút dở, ông thi triển ngay bài Ngọc Trản, điêu luyện, mạnh mẽ.
Qua ông, tôi hình dung cái thẳm sâu truyền thống của miền đất võ và của một dòng họ võ Bình Định. Hiện tại dòng họ ấy vẫn còn nguyên bốn đời theo nghiệp võ và được giới võ lâm miền Trung gọi là "Tứ đại đồng đường".
* Dòng họ cao thủ


Võ sư Trương Cần, 91 tuổi còn đủ sức múa đại đao
Họ Trương ở xã Phước Sơn (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) chẳng ai là không biết võ. Ngay như đàn bà con gái cũng được truyền cho vài thế võ gọi là để phòng thân. Còn lớp anh em của võ sư Trương Cần, cha võ sư Vịnh, năm nay đã 91 tuổi, thì đều thuộc hàng cao thủ. Một là Trương Xuân Ba, biệt danh là Sáu Hòa, từng ẵm cúp đồng đen Đông Dương sau một trận so tài ở An Thái. Sáu Hòa nổi danh lì đòn, đa mưu.
Chẳng thế mà thời Việt Minh, có lần ông cải dạng... ăn cướp để lọt vào nội bộ băng đảng cướp Sáu Sinh diệt gọn tên tướng cướp nổi tiếng này. Khi đó ông phụ trách an ninh của xã. Người nữa là Trương Hoàng, biệt hiệu Ba Chăm, là một trong những người thầy của võ sư Hà Trọng Sơn. Các cao thủ ấy đều đã qua đời mà chưa có người nối nghiệp võ. Những bí kíp truyền thừa võ nghệ của dòng họ Trương nay chỉ còn ở võ sư Trương Cần mà Trương Văn Vịnh là người con trưởng, cũng là người nối nghiệp võ nghệ của ông.
Võ sư Trương Cần kể: "Năm tôi lên 10 tuổi, gia đình gửi tôi cho bác ruột là võ sư Trương Ninh để học võ. Ngày ấy, do cuộc sống nhiễu nhương nên mọi người học võ để hộ thân và bảo vệ tài sản khỏi bị trộm cướp... Năm 20 tuổi, tôi lấy vợ rồi sinh ra thằng Vịnh, khi cháu lên 8 tuổi tôi bắt đầu dạy cho cháu những đường quyền cơ bản, nhưng chỉ được vài năm tôi phải gửi cháu cho hai người anh dạy bảo tiếp, còn tôi tập kết ra Bắc...".
Theo học võ sư Trương Xuân Ba được mấy năm, Vịnh tiếp tục thọ giáo võ sư Ba Chăm. 10 tuổi, ông đã đi gọn bài Lão hổ thượng sơn và cả bài Tứ linh đao cực khó. Đường đao phủ kín bốn mặt, vùn vụt, bóng loáng, oai hùng. 18 tuổi ông đã bắt đầu thượng đài và cả thời trai trẻ của ông gắn liền với những trận so găng khắp Trung, Nam.
Năm 20 tuổi, tại Nha Trang, Vịnh đã "đụng độ" Thạch Khen, người Campuchia. Lão võ sư nhớ lại: "Thạch Khen là tay cừ khôi, cực kỳ lì đòn. Tôi đã dùng đủ mọi thế mà không làm sao hạ được, ngược lại tôi bị đánh tơi tả. Cả hàm răng như muốn rụng hết, mặt sưng vù. Lòng tự trọng dân tộc giúp tôi chịu đựng những đòn đánh của Thạch Khen. Cuối cùng tôi phải sử dụng đến ngón sở trường của mình là bay lên cao (phi long) đánh phủ xuống vào các huyệt đạo mới hạ được tay cao thủ này...".
Một trận khác cũng khiến ông nhớ đời là trận so tài với một võ sư tứ đẳng huyền đai taekwondo Hàn Quốc ở Gia Lai năm 1968. "Hồi đó, nghe nói đến tứ đẳng là ghê lắm. Thượng đài, tôi nghĩ chủ yếu là để học hỏi, với lại cũng để so lại xem kỹ thuật VN mình ra sao. Biết cái giỏi của anh võ Hàn là cước ống. Mình mà chỉ lớ xớ bên ngoài, đối thủ đá vắt ống cho hai cái là tiêu liền nên tôi phải nhập nội, bám đòn. Vậy là đối thủ dùng cước không được, mà kiềng thì võ Hàn lại dở. Tôi cứ găm vô các huyệt, tóa nhãn pháp rồi dùng Diệp hổ trảo đánh vào vị trí bàng quang. Chưa đầy năm phút võ sĩ Hàn Quốc đã gục".
* "Phi long" tuyệt chiêu
Cái làm nên tên tuổi của võ đường Phi Long Vịnh danh trấn miền Trung chính là tuyệt chiêu "phi long". Đòn này phải vừa đánh tới, lại vừa trả bài phóng hậu, rồi chân sau bay lên, dập luôn trên không, đánh phủ đầu vào bộ não. Võ sư nào cũng phải bái phục cái đòn bay thượng thặng ấy.


Tứ đại đồng đường của dòng họ võ Phi Long: ông cố, cha, con và cháu...
Năm 1970, trong chương trình biểu diễn võ thuật và thi đấu với các võ sư khét tiếng trong và ngoài nước lúc bấy giờ, võ sư Vịnh đã thi triển đòn đánh trên không biến ảo này nên ban tổ chức đã dùng tên đòn mà đặt cho môn phái của ông là "Phi Long".
Rồi hàng trăm võ sĩ qua sự đào tạo của võ sư Phi Long Vịnh đã thành danh, lại mở thêm nhiều võ đường mang tên Phi Long. Thậm chí, một số võ đường dù không liên quan gì cũng ăn theo "võ hiệu" Phi Long. Cái tên võ đường Phi Long Vịnh ra đời như một cách phân biệt.
Nghe tôi hỏi ấm ớ rằng cái đòn "phi long" ấy hẳn là một tuyệt kỹ có từ thời Tây Sơn, và liệu có liên hệ nào với người thầy của ba anh em Tây Sơn có tên Trương Văn Hiến, sách vở vẫn gọi là thầy giáo Hiến; võ sư Vịnh nói: "Hồi nhỏ tôi nghe nói là cũng có liên hệ, nhưng cũng chỉ nghe nói lại như vậy. Ngay ông nội tôi cũng đã gọi thầy giáo Hiến là ông cao rồi nên lớp sau như tôi cũng chẳng biết gì hơn. Còn nếu nói là bí kíp bí truyền chi chi đó thì thật ra cũng chẳng có đâu. Nhiều võ đường khác cũng biết đòn này cả đấy chứ, chỉ có điều họ không chuyên. Còn người họ Trương thì đã luyện đòn này từ hồi còn để chỏm. Tuyệt kỹ hay không cũng là nhờ tập luyện bã cả người ra mà nên đấy".
Mọi tinh túy của võ thuật cổ truyền mà võ sư Vịnh thọ giáo từ các bậc cha chú một lần nữa được ông trao truyền cho các con trai của mình. Trương Trọng Hải, người con trai thứ ba của ông, 50 lần thượng đài thì chỉ thắng hoặc hòa chứ chưa hề biết đến thất bại. Hải là "trợ thủ" đắc lực của cha trong việc đào tạo võ sinh cho võ đường. Trương Trọng Hùng, người con trai thứ tám mới 32 tuổi cũng đã có hơn 40 lần thượng đài...
Khi tôi đến thăm gia đình, võ sư Vịnh vẫy tay gọi đứa cháu ngoại Nguyễn Hoàng Vũ (12 tuổi) đang chơi ngoài sân vào để biểu diễn vài bài quyền cho khách xem rồi ông nói: "Thằng cháu nội của tôi là Trương Trọng Hòa mới là thằng khá nhất. Nó mà đi quyền thì cả hình-ý-thần đều được thể hiện rõ nét...".
. Theo Tuổi Trẻ chủ nhật
Giỗ tổ võ trên miền đất võ
Mồng 9 tháng Giêng Ất Dậu (17-2), chúng tôi có mặt tại võ đường võ sư Phan Thọ (thôn Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn) để tham dự lễ giổ tổ võ, cảm nhận truyền thống thẳm sâu của một vùng đất võ…


Võ sư Phan Thọ (người mặc áo thụng đỏ) làm chánh tế trước bàn thờ tổ.
Ngôi nhà nhỏ ba gian của võ sư Phan Thọ nằm sâu trong xóm. Trước hiên nhà có sân rộng lát gạch để tập võ, nay dựng sạp để đón môn đệ, tiếp bằng hữu từ khắp nơi tụ về. Lão võ sư năm nay 78 tuổi, lo chỗ nọ, chu tất chỗ kia, và ánh mắt ánh lên niềm vui khi nhìn những lớp đệ tử từ các nơi tụ về trong ngày giỗ tổ…
Thật ra, mỗi võ đường, lò võ giỗ tổ vào một ngày khác nhau tùy theo quy ước. Như võ đường võ sư Phan Thọ giỗ vào ngày 9 tháng Giêng, còn ngay tại từ đường của ông Cai Bảy, khi võ sư Nguyễn Thiếp còn sống, thường tổ chức giỗ tổ vào ngày 4 tháng 9 âm lịch, còn làng võ Thuận Truyền (xã Bình Thuận) thì giỗ tổ vào ngày 12 tháng 2 âm lịch. Võ sư Phan Thọ cho biết: "Võ thuật đã ra đời từ rất lâu, nhưng tổ võ thì chúng tôi thờ ba anh em nhà Tây Sơn, phần vì công trạng lớn lao của ba ngài, phần vì chính ở thời kỳ Tây Sơn võ đã được hội tụ, hoàn chỉnh, biến đổi lên một tầm vóc mới, phục vụ cho mục đích nghĩa hiệp".
Lễ giỗ tổ của một võ đường, nhưng thoáng qua, tôi bắt gặp khá nhiều vị "cao thủ võ lâm" từ các võ đường khác cùng đến dự. Võ sư Phi Long Vịnh từ huyện Tuy Phước có mặt từ sớm. Lại thoáng thấy ông Nguyễn Tấn Lân, cháu nội cụ Cai Bảy (tức Bảy Lụt, chính danh Nguyễn An, người mà năm xưa, võ sư Phan Thọ bái làm người thầy đầu tiên) cùng một số người đến từ làng võ An Vinh (xã Tây Vinh) cùng sang giỗ tổ. Nhiều nhất vẫn là môn đệ của võ sư Phan Thọ. Người quanh thôn, trong xã hay trong huyện, kẻ dưới Quy Nhơn và không thiếu những môn đệ từ ngoài Bắc hay tận miệt Kiên Giang cũng tìm về. Anh Dương Phan Minh, người Lạng Sơn, nay sống ở Phan Thiết, từ ba năm nay đã học võ với cụ Phan Thọ cũng vậy. Anh cho biết: "Hồi từ Lạng Sơn vào, nghe tiếng cụ, tôi tìm đến bái làm sư phụ rồi theo học từ đó. Sau này vào Phan Thiết, mỗi năm tôi đều về để thầy chỉ dạy thêm một số bài bản. Biển học vô bờ, mới được ba năm nên tôi chưa học được gì nhiều. Muốn gọi là tạm tinh thông cái căn bản của thầy, theo tôi nghĩ, chí ít cũng mất hàng chục năm ấy chứ".
Nghe chuyện anh Minh, tôi lại nhớ đến cuộc đời tầm sư học đạo ròng rã 20 năm với chừng... 12 vị thầy của võ sư Phan Thọ. 17 tuổi, võ sư Phan Thọ đã phải rời nhà, sang An Vinh học võ với ông Cai Bảy. 21 tuổi, lấy vợ mà cái nghiệp võ vẫn không dứt. Năm 24 tuổi, sau khi đã tinh thông những bài bản cao thâm của võ sư Cai Bảy, dù đã lập gia đình và sinh đứa con trai đầu lòng, được sự ủng hộ của vợ, ông tiếp tục tầm sư học võ. Ở An Vinh thì ông học thầy Cai Bảy, thầy Sáu Hà… qua An Thái lại học cụ Tàu Sáu (Diệp Trường Phát), lên Thuận Truyền nhờ cụ Hồ Ngạnh chỉ điểm côn thuật... Nhờ kiên tâm khổ luyện, võ sư Phan Thọ là một trong những người hiếm hoi tinh thông thập bát ban binh khí, cũng như các tuyệt chiêu của môn phái Tây Sơn: quyền pháp Ngọc Trản, Tiên Ông, Thần Đồng, Bát Quái, Ngũ Hành, Lão Mai; đao pháp Siêu xung thiên và Siêu công; côn pháp Bát quái, Thấp bộ Xà đản… Ngoài ra, ông còn áp dụng thông thạo các loại vũ khí hiếm gặp, chỉ lưu truyền ở dân bản địa Tây Sơn mà dân gian gọi nôm na là "võ thế", "võ vườn" như võ đòn sóc (đòn gánh hai đầu nhọn), võ bồ cào (chĩa ba mũi nhọn)… Và những câu chuyện về võ sư Phan Thọ như chuyện quần thảo với heo rừng, đánh bại võ sư ngũ đẳng huyền đai taekwondo… vẫn được truyền tụng trong võ lâm như những huyền thoại.


Võ sư Phan Văn Sơn biểu diễn Hùng Kê Quyền trong ngày giỗ tổ võ.
Mải chuyện, đã sắp đến giờ hành lễ. Võ sư Phan Đức, con trai võ sư Phan Thọ, tiết lộ, ngay từ đêm hôm qua, đã tiến hành cúng cô hồn. Nghi lễ được tổ chức từ 20 giờ tối, ngay giữa sân nhà, với con heo sống, mục đích là để cầu an. Và sáng mùng 9 tháng Giêng, chỉ biện lễ cúng chay, với nghi thức gồm đèn nhang, hương đăng trà quả, dâng lên tổ với lòng thành kính. Đến giờ cúng tổ, đã thấy võ sư Phan Thọ trang trọng với áo thụng đỏ, chít thêm chiếc khăn điều, hai bên là những bậc trưởng lão và một số môn đệ. Khi dàn nhạc trỗi lên khúc Lưu thủy, là nghi lễ dâng hương. Võ sư Phan Thọ làm chánh bái, cùng các bậc cao niên, các môn đệ dâng hương, đọc văn tế cúng tổ…
Sau những nghi thức cúng tế thiêng liêng, kính cẩn, là phần thao diễn của các võ sư môn đệ của lão võ sư Phan Thọ. Những bài Ngọc Trản, Hùng Kê Quyền, rồi Lão hổ Thượng sơn… được biểu diễn trong không khí vừa đầm ấm của ngày hội ngộ, vừa trang trọng của giờ phút thiêng liêng, cảm khái đặc biệt. Nó không đơn thuần chỉ là sự phô diễn hay để ăn thua, nó là sự thao diễn, để báo cáo với thầy, cũng là để bạn đồng môn cùng chứng cho sự trưởng thành trong võ học. Thú vị nhất là được xem lại Hùng Kê Quyền, bài quyền tương truyền do Nguyễn Lữ xem thế gà chọi sáng tạo ra, lại do đích thân võ sư Phan Văn Sơn, con trai cả của võ sư Phan Thọ biểu diễn…
Ánh mắt của lão võ sư Phan Thọ khi nhìn những thế hệ học trò biểu diễn, vừa có cái vui mừng, nhưng dường như vẫn ẩn chút gì đó vương vấn. Cái tâm sự ấy, sau đó, chính ông thổ lộ: "Thập bát ban binh khí có 9 song đấu thì hồi giờ tui mới truyền được một. Mà chính song đấu này mới khó, cái gì đấu với cái gì cho ăn khớp, rồi phải luyện rất nhiều... Cả những bài thảo của từng môn binh khí nữa. Vậy mà tui năm nay thì tuổi đã 80, không chừng chỉ nay mai xuống lỗ rồi…. chỉ mong có điều kiện, cơ hội để truyền dạy lại hết. Không thì uổng lắm".
. Lê Viết Thọ
"Hùm xám miền Trung"
Trong làng võ Bình Định đương đại, võ sư Hà Trọng Sơn là một cây đại thụ danh bất hư truyền, là "kỳ nhân" mà không "dị sĩ". Tên ông được khắc vào danh bảng cao thủ bằng những lần thượng đài bách chiến bách thắng.
* Huyền thoại "hùm xám"


"Hùm xám"
Những năm đầu thế kỷ 20, ở làng An Hòa, nay là xã Phước An, huyện Tuy Phước có một gia đình rất giỏi võ nghệ. Người con trai duy nhất trong gia đình ấy - Hà Trọng Sơn - từ những ngày ấu thơ đã tỏ ra say mê "nghiệp kiếm cung". Không lâu sau, cậu con trai ấy sớm khiến dân làng thán phục bằng chiến thắng trong lần "so găng" lúc mới 15 tuổi. Bắt đầu từ đó, danh tiếng võ thuật của võ sĩ Hà Trọng Sơn ngày một lan xa với biệt danh "Hùm xám miền Trung".
Là người "ngoại đạo" với làng võ, nghe danh "Hùm xám miền Trung", tôi mạo muội tìm gặp ông, nay đã ở độ tuổi cổ lai hy. Mắt mờ, tai bị lãng, lão võ sư không còn tinh tường như xưa. "Thời vang bóng" của ông chỉ còn đọng lại trong ký ức với một vài kỷ niệm ít ỏi và nhợt nhạt. "Tui chẳng còn nhớ rành mạch những chuyện thời trai trẻ nữa. Cháu muốn biết gì thì tìm hỏi ông Nghĩa, ông Vịnh", ông tâm sự như một chân nhân ẩn mình sau quãng đời dài chịu nhiều nắng, lửa.
Hầu hết võ sĩ thuộc thế hệ đàn em của ông nay đã thành danh. Trong số ấy, có võ sư Hàm Hữu Nghĩa. Kỷ niệm của những tháng ngày không hề biết đến mỏi mệt và thất bại khi cùng với "hùm xám" thượng khắp các võ đài ở ba miền Nam - Trung - Bắc vẫn hằn sâu trong tâm thức của võ sư Nghĩa, giờ nhắc lại, cảm giác tự hào hiện rõ trên từng lời hồi tưởng: "Thời đó, uy lực của những quả đấm mà võ sư Hà Trọng Sơn tung ra khiến các đối thủ khiếp đảm, thất thần mỗi lần giáp đấu. Ông ấy "khai tâm điểm nhãn" võ thuật từ năm lên bảy. Chưa tròn 17 tuổi đã thượng đài ở các giải đấu lớn. Cảm thức võ thuật thiên bẩm, ông sớm tinh thông các trường phái võ học, sử dụng nhuần nhuyễn đủ loại binh khí. Thuần thẩm chiêu thức võ cổ truyền cũng như sở học về võ Trung Quốc, các nước Tây phương. Bàn tay sắc, cứng như móng cọp, nhãn pháp như cú mèo, thủ pháp vững như bàn thạch...".
Tôi lặng lẽ "thỉnh giáo" lời của võ sư Nghĩa. Ông kể trôi chảy, không một chút vấp váp.
...Biệt danh "Hùm xám miền Trung" do báo chí thời ấy phong tặng đã vang khắp xứ. Năm 1944, tại hội thi võ thuật Đông Dương tổ chức tại Tourane (Đà Nẵng ngày nay), ông đã hạ "đo ván" một tay đấm cừ khôi của Pháp, giật giải quán quân trước sự bàng hoàng, ngỡ ngàng của nhiều người. Liên tiếp các cuộc so tài sau đó, ông đều chiến thắng, ngay cả võ sĩ tên tuổi thời đó là Kid Demsey cũng không thể đánh bại được ông. Chức vô địch miền Trung gắn liền với cái tên Hà Trọng Sơn suốt nhiều năm liền... Vang danh, ông quay về ẩn dật, chỉ giáo cho các võ sinh có chí "tầm sư học đạo". Nhưng dường như ngôi vị độc tôn trong làng võ đã kích thích một số võ sĩ tìm đến thách đấu với người mang biệt danh "hùm xám". Đặc biệt là chuỗi trận đấu kịch liệt nhất kéo dài 17 năm với võ sĩ Huỳnh Tiền, biệt danh là "Cáo già miền Nam". Lần "so găng" đầu tiên giữa hai võ sĩ này vào năm 1966, tại Đà Nẵng, ông Sơn thắng; tại An Thái vào năm 1968, hai tay đấm "bất phân thắng bại"; lần cuối cùng vào năm 1983, tại sân vận động Pleiku (Gia Lai), người đăng quang lại là ông Sơn. Khi đó, "hùm xám" đã bước sang tuổi 57.
Từ những ngày đầu khai sơn mở cõi, mảnh đất này là nơi mà sự khắc nghiệt của tự nhiên luôn là nỗi khiếp đảm của con người. Và, những dấu chân đầu tiên hằn in lên "đất võ trời văn" đều gắn liền với những huyền thoại.
* Về với đời thường
...Những năm chiến tranh loạn lạc, quân địch nghi nhà ông là nơi cất giấu lương thực, tập hợp binh lực của Việt Minh. Hòng tránh hậu họa, bọn chúng đã dùng máy bay thả nhiều thùng phuy xăng đốt trong đêm tối. Tai họa bất ngờ này đã vĩnh viễn cướp đi sinh mạng hai cụ thân sinh của ông. Tài sản mất trắng, ông còn duy nhất mỗi chiếc quần đùi; mấy chiếc cúp minh chứng tài võ nghệ bị nóng chảy biến dạng, ông đem bán đồng nát. Vợ con từ đó đành chịu chung cảnh gian truân.
Khi đã khắc đậm tên mình giữa làng võ, "hùm xám" sống một cuộc đời dung dị, thủy chung. Dịp mừng thọ "hùm xám" tròn thất thập, thân hữu đề tặng rằng: "Nghiệp võ lừng danh gió bụi không say tâm mãnh hổ/Tài hoa nổi tiếng thủy chung vẹn giữ đức hiền nhân".
Không còn đủ sức để tung chiêu cùng cây đại đao; khẩu quyết về bài roi Thái Sơn, Mai Hoa Kiếm gắn liền danh tiếng "hùm xám", ông cũng không thể nhớ nổi. Chí tang bồng đã thỏa, về với đời thường, ông thanh thản sống phần đời còn lại trong cuộc hành trình nhân thế đầy giông bão. Tôi mạn phép xin được xem những tấm ảnh thời trai trẻ của ông. Xua tay, ông nói không chút tiếc nuối: "Anh em, bạn bè xin làm kỷ niệm hết trọi rồi. Vả lại, hoạn nạn rồi cuộc đời đấm đá lang bạt đây đó, đâu có ảnh gì nhiều". Đoạn chỉ tay lên vách tường, ông trầm ngâm: "... kẻ học võ bất ly cung kiếm, nhưng tui không thể nào cưỡng lại quy luật đời người, rửa tay gác kiếm lâu lắm rồi".
Giờ đây, gánh nặng tuổi tác đã làm nhạt nhòa hào quang từng phủ sáng thời trai trẻ. Lưng bát cơm mỗi bữa, "hùm xám" quẩn quanh trong khu vườn được bao bọc bởi hàng chè tàu xanh ngát. Ngày lại ngày, ông "làm bạn" với chiếc ti vi đen trắng cũ kỹ; chiều chiều, chăm bẵm hai chậu sứ, một gốc mai và một khóm trúc nhỏ đặt trước hiên nhà. Bà Khuê, vợ ông cho biết: "Đó là tất cả thú tiêu dao của ông"!
oOo
Dấu tích tháng năm phủ đầy những binh khí của "hùm xám". Lão võ sư dường như không màng gì đến những kỷ vật ấy. Khi câu chuyện đã mãn, ông còn cho biết: "Mấy hôm trước, cán bộ của Sở Văn hóa - Thông tin có về thăm tôi. Thật tiếc, tôi không còn đủ sức kể lại những gì mà họ muốn biết".
Sáu người con của ông không ai đi theo nghiệp võ. Võ nghiệp của một võ sư đầu đàn sắp khép lại. Đi giữa hàng chè tàu xanh trong vườn nhà vị võ sư già trong khoảng không vắng lặng, đâu đó như vọng lại câu hát ru: Mặc ai khanh tướng công hầu/Qua (mình) cầu cho hết binh đao qua về/Qua về qua gỡ bùa mê/Trọn lời em bậu hẹn thề cháo rau...
. Theo Thanh Niên
Roi Kinh, quyền Bình Định
Khoảng năm 1766, thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, có tên tham quan về hưu, đến chiếm giữ một vùng làng mạc trù phú ở phía đông bắc núi Chớp Vàng. Tên cường hào này có cuộc sống rất ô trọc, tàn ác, việc đầu tiên lão làm tại vùng đất vừa chiếm cứ là một nhà giam, một máy chém và tự đặt ra luật lệ, buộc người dân trong vùng trở thành nông nô cho lão.
Năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa ở vùng Thượng đạo và Hạ đạo, lão cường hào kiếp sợ, co mình trong lớp vỏ một kẻ lương thiện, để qua mắt quan quân, song không vì thế mà lão giảm bớt những thú vui ô trọc. Nhiều người dân lương thiện và gái đẹp tiếp tục mất tích.
Mãi đến năm Kỷ Dậu (1789), sau khi Hoàng đế Quang Trung thắng trận Đống Đa mới có thì giờ lo cải tổ việc cai trị trong nước. Khoảng thời gian năm 1799, quan tiền quân họ Võ có dịp trở lại thăm quê nhà ở Tây Sơn Hạ đạo.
Lúc quan tiền quân tiếp khách tại nhà riêng, nhiều bô lão trong làng đến thăm hỏi và tường thuật những điều mắt thấy tai nghe, xưa nay vẫn còn uẩn khúc quanh vùng. Quan tiền quân cho mọi người lui ra hết, chỉ lưu lại một người lớn tuổi nhất. Quan tiền quân hỏi người ấy:
- Ông có biết bọn thủ hạ đắc lực của tên cường hào đó có bao nhiêu người không?
- Bẩm quan, điều này rất hệ trọng, vì thế xưa nay chẳng ai dám nói ra. Thực tế thủ hạ của cường hào toàn một lũ cướp giật, gồm bốn mươi tên, trong đó có ba tên cầm đầu võ nghệ kinh khiếp khắp vùng chẳng ai dám đối địch.
Quan tiền quân mỉm cười:
- Các việc khác ta tin lời ông. Riêng không việc ai chống cự nổi ba tên súc sinh ấy ta không tin. Ông suy nghĩ tiếp đi, xem vùng Tây Sơn Hạ đạo này còn thanh niên giỏi võ nào có khả năng đánh được bọn đó không?
Quan tiền quân họ Võ cho ông lão ra về và cho người gọi Trần Sào đến. Trần Sào đứng trước mặt quan chỉ cung tay xá, và vòng tay hầu một bên, chứ không quỳ. Quan tiền quân thấy Trần Sào vai hùm, lưng gấu, trán rộng, mặt vuông, sóng mũi ngay thẳng, biết là người trung chính, có ý khen thầm nhưng cũng gạn hỏi:
- Tại sao người tên Sào?
- Bẩm quan, vì tôi họ Trần, thường sử dụng cây roi dài hai mươi mốt thước mộc, như cây sào để luyện tập. Vì vậy người trong vùng gọi tôi là Trần Sào.
- Tốt lắm! Vậy ngươi luyện võ giỏi hay roi?
- Tôi chỉ tập trung cách đánh thắng địch thủ chứ không chú ý đến quyền hay roi.
Quan tiền quân cười đáp:
- Ta không tin lời nói của ngươi. Ở Hóc Bộm phía đông vùng Chớp Vàng chỉ có ba tên giặc cỏ, người không dám đụng đến, nói chi đến việc thắng bại.
Trần Sào vẫn bình thản trả lời:
- Bẩm quan, đấu pháp phải từ nhiều mặt. Hội đủ điều kiện đánh sẽ thắng. Chưa đủ điều kiện, chẳng những chỉ hại thân danh mà còn làm hại đến nhiều người. Hôm nay nếu quan của triều đình ra lệnh cho tôi giết cướp mà tôi không tuân mới cho là tôi nói sai.
Quan tiền quân gật đầu khen:
- Được lắm! Ta ra lệnh nội trong ba hôm, ngươi phải cắt đầu ba tên cướp bỏ trên núi, dìm thân bọn chúng xuống vực sâu cho ta.
Buổi chiều ngày thứ ba, Trần Sào cầm rựa quéo cán dài, một mình đi vòng qua phía tây núi Chớp Vàng, đến chờ ở trên bờ một vực nước sâu. Đến lúc chạng vạng tối, ba tên cướp xuất hiện, từ thung lũng Đồng Sim đi ra. Trần Sào chống cán rựa quéo xuống đường nạt:
- Đứng lại!
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:48 am

Ba tên cướp dừng ngựa, tên đầu sỏ cười nhạt hỏi:
- Thằng Sào, mày dám chặn đứng bọn tao à?
Hai tên em út gã cướp chẳng cần nói năng, nhảy càn xuống ngựa, quơ đoản đao đánh ngay. Trần Sào hoa cây rựa quéo dài cán gạt béng vũ khí của bọn cướp ra hai bên. Hai tên cướp thấy mở miếng võ đầu không thành công, đều thay đổi cách đánh, kẻ trước người sau, tập kích Trần Sào liên tục.
Trần Sào bỗng trầm giọng quát:
- Còn một đứa nữa mau xuống ngựa. Cả ba đứa bay cứ dốc hết sức đi, hôm nay ta không tha mạng cho đâu.
Tên đầu sỏ nghe nói, nổi giận phóng ngay xuống ngựa, múa cây đại đao vùn vụt, áp đánh cùng đồng bọn. Trần Sào đã thấy ba tên cướp rời khỏi ngựa, lập tức co ngón tay búng ba viên sỏi vào mắt của ba con ngựa làm cả ba hoảng kinh hí vang, cuốn vó bỏ chạy mất. Ngay lúc ấy, lưỡi rựa quéo của Trần Sào như một loại binh khí quái dị luôn bao phủ ba tên cướp và lần lượt giật rơi hết vũ khí tên tay chúng. Hai bên đánh nhau chưa đầy một khắc, ba tên cướp tay chân luống cuống bị Trần Sào chém rơi đầu xuống đất.
Hôm sau trưởng làng nhận được trát quan huyện, đòi phải bắt nộp kẻ gây án mạng trong làng. Trưởng làng, họ Văn, biết quan tiền quân họ Võ là người cầm đầu vụ án mạng này, nên không dám bắt Trần Sào. Trưởng làng bị quan huyện thúc ép quy trách nhiệm đã để án mạng xẩy ra trong làng và bắt giam vào ngục kín.
Giữa lúc cả gia đình họ Văn đang hoang mang sợ hãi, quan tiền quân họ Võ cho đòi em trai của trưởng làng họ Văn lại nói:
- Nghe đồn ngươi văn hay chữ tốt, vậy cứ vâng lời ta làm tờ trình quan để cứu mạng cho anh ngươi.
Em trai họ Văn vâng mệnh, đem giấy bút đặt trước quan tiền, quan chuẩn bị ba tờ. Quan tiền quân đọc: "À... ba tên bị giết chết là ba quân giặc cướp, không phải dân lương thiện, quan huyện muốn bắt tội người giết chúng, cứ lên núi có ba thủ cấp bọn cướp bắt tội sơn lâm, lội xuống vực sâu, chỗ có thân chúng bắt tội hà bá…".
Quan huyện xem tờ trình nổi giận quát mắng, nhưng khi nghe tên lính dân tờ trình nói nhỏ mấy câu, quan huyện thất kinh, lập tức hạ lịnh mở ngục kín thả ngay trưởng làng họ Văn ra. Cũng vừa lúc ấy, quan tiền quân họ Võ đã đến huyện đường nạt ngay quan huyện:
- Người làm quan huyện hưởng bổng lộc triều đình, chẳng lo tiêu trừ bọn giặc cướp ở địa phương. Lại còn xử án hầm hồ, bắt giam người trái phép. Nếu không mau khai báo điều ẩn khuất, ta không dung tha cho đâu.
Quan huyện biết không thể giấu được đành thú nhận có nhận vàng đút lót của tên cường hào. Quan tiền quân sai lính lột hết áo mão quan huyện và giam chung với lão cường hào vào ngục kín. Sau đó quan tiền quân tịch biên tài sản, ruộng đất của tên tham quan, và lão cường hào chia điều cho dân quanh vùng. Trưởng làng họ Văn được lên thay quan huyện.
Một hôm, quan tiền quân họ Võ gọi Trần Sào đến nói:
- Người cũng có chút ít tài cán, dũng khí, sao không đến kinh đô ứng thí?
- Bẩm quan, lâu nay tôi chưa gặp được quý nhân, dẫu có đến kinh đô ứng thí, cũng chưa chắc đã thành công.
- Ta không muốn tiến cử những kẻ bất tài. Nếu người ra trường thi Huế làm nên việc, ta sẽ nói giúp cho vài câu.
Ngày sau, Trần Sào sắm sửa khăn gói đi kinh đô, quan tiền quân họ Võ gọi đến dặn riêng:
- Quan giám khảo trường thi rất giỏi về phép đánh roi, ngươi phải tự lượng sức để khỏi hổ danh là võ sinh Bình Định.
Trần Sào nghe xong vẫn im lặng. Lúc ra đến kinh đô, vào trường thi các môn múa côn, quyền, nhấc kẽm, bắn cung, nhảy ngựa, Trần Sào đều được vượt qua các thí sinh một cách dễ dàng. Đến khi thi giao đấu với các thí sinh, đường nét côn, quyền, đao, kiếm của Trần Sào làm quan giám khảo chú ý. Cuối cùng quan giám khảo trường thi bước ra đấu trường nói với Trần Sào:
- Ngươi thường ngày giỏi về quyền hay roi?
- Bẩm quan, võ kinh có câu: "Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị", phép đánh nhau không thể nói trước giỏi về môn gì, chỉ lúc lâm trận mới phân cao thấp được.
Quan giám khảo nghe Trần Sào đối đáp hợp lý nên cũng có ý mến tài nói:
- Ta muốn thử đấu roi với ngươi. Nếu ngươi đụng được vào vạt áo dài của ta, kể như ngươi đã thắng.
Trần Sào cung tay vái dài một cái nói:
- Cuối hiệp đấu thứ hai, xin quan lớn lưu ý giữ phía sau.
Hai người lui lại, đồng sử dụng roi dài hai mươi mốt thước mộc để giao đấu. Đầu của cả hai đối thủ bỗng xoay vù vù và đâm vào nhau liên tục. Nhưng cả hai người vẫn giữ được tư thế đứng yên tại chỗ. Sang hiệp hai, thân rồi hai bên xoắn tròn vào nhau, nghe vang từng tiếng chát chúa. Được một lúc, cây roi dài trong tay quan giám khảo bỗng bị bay vút ra xa. Quan giám khảo vội lạng mình sang bên tránh, lập tức vạt áo dài phía sau bị đầu roi của Trần Sào cắt đứt lìa, rơi xuống đất. Trần Sào cung tay xá dài nói:
- Tôi sơ ý thất lễ xin quan lớn tha cho!
Quan giám khảo vui vẻ nói với quan tiền quân họ Võ:
- Lời ngài tiền quân không sai. Roi, quyền ở đất Bình Định xưa nay quả "danh bất hư truyền".
. Theo Văn hóa Bình Định
Lễ hội Đổ Giàn ở An Thái
Mảnh đất An Thái xã Nhơn Phúc (An Nhơn) từng nổi tiếng là cái nôi võ Bình Định, cũng là nơi có nhiều gia đình người Hoa sinh sống, đan xen với cộng đồng người Việt, làm cho đời sống văn hóa người dân vùng đất này thêm phong phú.
Để không ngừng nâng cao võ thuật cho các phái võ, ở vùng này không những thường tổ chức đấu võ đài, mà còn có hình thức cao hơn là tổ chức Lễ hội Đổ Giàn do một số dòng họ người Hoa lĩnh xướng. Chùa Ngũ Bang Hội Quán là nơi diễn ra lễ hội Đổ Giàn, từ ngày rằm đến 16 và 17 tháng 7 âm lịch (4 năm tổ chức một lần).
Cụ Tạ Chương Phát, năm nay 76 tuổi, kể lại diễn biến lần tổ chức lễ hội Đổ Giàn sau cùng, lúc ấy cụ đã 16 tuổi. Về phần lễ, khoảng 2-3 giờ sáng rằm là bắt đầu lễ rước nước, lấy từ sông Kôn, cách vài ba cây số về phía thượng nguồn ở đoạn sông sâu, nước trong sạch nhất. Nước được chứa trong cái chum đất mới sạch sẽ để trên kiệu hoa gọi là Long Đình, có cờ phướn, nhạc, chiêng trống… Ban lễ đưa nước về dâng lên bàn thờ Phật trong chánh điện và các bàn thờ hai bên tả hữu. Mờ sáng ngày rằm là tiến hành lễ rước Phật, có chiêng trống, cờ phướn, học trò gia lễ đi hai bên kiệu hoa, đi giữa là ban lễ. Xuất phát từ chùa Hội Quán lần lượt đi hết các chùa của người Hoa trong phố và đến chùa Phổ Tịnh là chùa Phật để làm lễ rước Phật, thỉnh kinh, thỉnh thầy. Hai bên dãy phố, nhà nào cũng thiết hương án, lễ vật trước sân, khi đoàn rước Phật đi ngang thì chủ nhà ra cắm hương trên kiệu hoa. Bắt đầu khai lễ tại chánh điện là làm thủ tục cung nghinh chức sự (chủ sám, kinh sư, công văn, thuyết pháp…) và trình tự khai kinh, niệm kinh, tụng kinh, trai đàn và cúng chẩn diễn ra suốt 3 ngày đêm.
Phần hội được chuẩn bị khá công phu, tốn kém. Cụ Thái Giáo Thông, 72 tuổi, mô tả: Một khán đài (giàn) bằng gỗ và tre được dựng lên trước cổng chùa. Giàn cao hơn 2 mét, chiều rộng mỗi bề khoảng 4 mét đủ đặt hương án, lễ vật gồm tam sanh (heo, bò, dê) và hoa quả, đứng cúng trên giàn lễ chỉ có ban lễ và học trò gia lễ, áo mão theo từng chức sự của nghi thức.
Tối rằm là làm lễ phóng đăng, phóng sanh (chim, cá) ở giữa sông Kôn; múa lân và hát bội; 3 đêm liền nhà nào cũng thắp đèn lồng rực sáng cả phố chợ và hương án trước nhà. Trước sân chùa có dựng một ngôi nhà tạm lắp ghép bằng gỗ được làm sẵn, xong lễ hội là xếp lại đến kỳ sau lại dựng lên. Khách thập phương xa gần đến dự lễ hội, kể cả người hành khất đều được vào nhà tạm ăn uống, nghỉ ngơi. Thời đó, ở An Thái nhiều người Hoa giàu có nên khả năng đóng góp cho lễ hội rất lớn.
Trong phần hội quan trọng nhất là Đổ Giàn, sau 2 ngày 16 và đến trưa 17 là hoàn mãn, đúng giờ mùi (khoảng 13 giờ) là lên Giàn chẩn. Ba hồi chiêng, trống vừa dứt là Đổ Giàn. Võ sĩ từ các võ đường bên này, bên kia sông Kôn được tề tựu trước, bắt đầu ra tay giật phướn, giật heo… Hầu như Đổ Giàn năm nào phần thắng cũng thuộc về các võ sĩ An Thái, vì bản lĩnh võ công và vì lợi thế "sân nhà". Vì tinh thần thượng võ nên các trường phái võ thắng không kiêu, bại không nản.
Ngót 60 năm rồi, lễ hội Đổ Giàn chưa có dịp khôi phục lại như xưa. Sang năm 2005 (năm Dậu) đúng chu kỳ tổ chức lễ hội, Sở Văn hóa Thông tin Bình Định đang phối hợp với địa phương khảo sát, chọn lọc tư liệu để xây dựng đề án, dàn dựng kịch bản chuẩn bị khôi phục lễ hội Đổ Giàn. Một lễ hội có ý nghĩa tôn vinh tinh thần thượng võ trên miền đất võ An Thái, đã từng góp phần quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm để cho "Quốc thái - Dân an", làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa của quê hương Bình Định.
. Trần Duy Đức
Nơi định danh là Miền đất võ
Không biết tự bao giờ, khi nói đến truyền thống thượng võ, người ta đều nghĩ ngay đó là vùng Bình Định. Căn nguyên để Bình Định trở thành Miền đất võ, có lẽ còn phải bàn thêm, nhưng việc hình thành nên những làng võ, làng tuồng, làng bài chòi... trong cơ cấu làng là hiện tượng hiếm có trên đất nước ta.
Nền học võ chân truyền Bình Định được hình thành theo đơn vị làng mà mỗi khi nhắc đến không ai là không biết tới các địa danh như: An Thái, An Vinh, Thuận Truyền... Chính những làng quê ấy đã góp phần tô thắm nên bức tranh hoành tráng của truyền thống thượng võ, được coi là nét sinh hoạt dân gian tồn tại bền chặt trên vùng đất Bình Định từ xưa đến nay. Về nguồn gốc của Võ Bình Định đã được giới nghiên cứu bàn đến, nhưng cái lý mà ông Vũ Ngọc Liễn, một nhà nghiên cứu văn hóa Bình Định, đưa ra dễ chấp nhận. Ông cho rằng Bình Định xưa là vùng đất phiên trấn biên giới Việt - Chăm, nơi lưu đày hoặc lánh nạn của các hào kiệt không thuận ý quân vương, nơi dung nạp những con người thất cơ lỡ vận. Đương nhiên song hành với hai đối tượng vừa nói không ít lũ lưu manh truyền kiếp cũng trà trộn đến đây "hành nghề" bất lương. Cho nên thuở ấy vùng này trộm cướp liên miên, chính quyền đương thời chẳng những không kiểm soát nổi mà còn thả nổi. Chuyện cha Hồ, chú Nhẫn sống ngoài vòng cương tỏa, tung hoành vùng núi Truông Mây (nay là Hoài Ân); chuyện Chàng Lía vừa là tướng cướp vừa là con người đậm màu hiệp sĩ có phạm vi hoạt động từ vùng núi Bình Khê đến Hoài Ân, nghĩa là từ vùng núi phía nam đến bắc Bình Định... là những minh chứng.
Do đặc điểm địa lý và xã hội vùng Bình Định thuở sơ kỳ, nên nhu cầu về võ nghệ thuở ấy cực kỳ bức thiết nhằm rèn luyện thể lực chống chọi thiên nhiên khắc nghiệt, chống thú dữ, chống trộm cướp bảo vệ tính mạng và thành quả lao động đồng thời chống áp bức, cường quyền, bênh vực kẻ yếu, giúp người nghèo... Biểu tượng cho những đức tính ấy là nhân vật Chàng Lía, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỷ XVIII trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra. Sự tích Chàng Lía với sức sống của nó mang tính truyền kỳ nhưng gói ghém khá trọn vẹn những gì thuộc về yếu tố phát sinh và hình thành Miền đất võ Bình Định; đồng thời cũng là bức tranh toàn cảnh cái đêm hôm trước của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Theo ông Vũ Ngọc Liễn, trước khi là vua, là tướng, lực lượng cốt cán của nghĩa quân Tây Sơn đều là những võ sĩ, hiệp sĩ võ nghệ cao cường... Chính cái phẩm chất tráng sĩ trong từng con người ấy là nhân tố quyết định mọi thắng lợi phi thường của quân đội Tây Sơn...
Các năm 1998-1999, trên mảnh đất Bình Định đã phát hiện được ba văn bản bằng Hán Nôm về những bài võ Bình Định tại các từ đường Phan Thọ, xã Bình Nghi (Tây Sơn); từ đường họ Trương xã Mỹ Hòa (Phù Mỹ) và võ đường Thanh Lương, thị trấn Bồng Sơn (Hoài Nhơn). Những tư liệu này cho thấy Bình Định rất xứng đáng với cái tên gọi "miền đất võ", mảnh đất này đã hun đúc nên bao tài danh trên làng võ không phải trong giang hồ như một số người nhìn nhận, mà có sắc của vua ban và được khắc bia lưu danh ở cố đô Huế.
. TS. Đinh Bá Hòa
Lò võ An Thái
Ở đất Bình Định, ai mà chẳng nghe câu: "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hoặc "Trai An Thái, gái Thuận Truyền". Câu nói ấy thể hiện một đặc điểm của An Thái, ấy là một lò võ lớn nổi tiếng của miền quê này. Trai gái đều giỏi giang võ thuật như nhau.
An Thái gồm 7 thôn lớn và một thị tứ, thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn. Nhân dân ở đây sống chủ yếu bằng trồng lúa, trồng mía, kéo mật làm đường và các nghề thủ công như dệt vải lụa, nhuộm the và buôn bán nhỏ. An Thái gần sông Côn, gần đường hàng huyện lại có thị tứ nên việc buôn bán rất nhộn nhịp. "Nhất cận thị, nhị cận giang" là vậy. Đầu thế kỷ XVII, nhiều người Hoa lánh nạn trong cuộc "phản Thanh phục Minh", lưu lạc đến đây sinh cơ lập nghiệp. Họ giỏi buôn bán và các nghề thủ công nên việc làm ăn của dân địa phương cũng nhờ thế mà phát triển.
Lò võ An Thái gồm 4 nhánh: Bình Sơn, Hải Sơn, Quách Cang, Hồ Hoành. Nhân dân An Thái từ già đến trẻ, từ trai đến gái hầu như đều giỏi võ. Thủa xưa nơi đây còn gần rừng núi và hoang vắng, lại loạn lạc giặc giã nhiều, nên ai cũng thi nhau luyện tập để có sức khỏe chống trộm cướp, chống thú dữ và bảo vệ làng xóm.
Phái võ Bình Sơn ở Thắng Công duy trì được những ngón bí truyền của võ Việt và kết hợp với võ Tàu của người Hoa. Ba phái kia thì thuần dạy võ Tàu, sau có kết hợp với võ Việt cho thêm phong phú.
Mỗi dịp Tết đến, nhân dân An Thái có trò chơi "phá giàn tranh heo" để thi thố sức khỏe và sự nhanh nhẹn của các võ sĩ. Những người dự thi đứng chung quanh giàn, chờ người trưởng trò chặt đứt dây giữ giàn buộc con heo quay rơi xuống. Người dự thi phải dùng mọi thủ pháp, miếng võ, sức mạnh và sự nhanh nhẹn để đoạt bằng được con heo. Ai tranh được, vác chạy một mạch về thôn mình là thắng cuộc, được mọi người tôn vinh và trọng nể.
Thủa xưa, thày giáo Trương Văn Hiến từ xứ Nghệ lưu lạc vào đất An Thái. Thày ra mắt dân làng bằng một pha ngoạn mục: nửa đêm thày dùng võ nghệ đánh tan bọn cướp lớn trên sông Côn. Dân làng mến phục, kính trọng, giúp thày mở lò dạy võ. Thày tận tâm truyền dạy võ nghệ cho con em họ. Người theo học rất đông. Anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cũng đến Thắng Công học văn, học võ thày Hiến và làm nên sự nghiệp vĩ đại. Các học trò khác của thày Hiến đều là những chiến binh dũng cảm của nghĩa quân Tây Sơn.
An Thái nay là một trong bốn trung tâm dân cư, là "cụm văn hóa" của huyện An Nhơn. Lò võ An Thái vẫn được duy trì và phát triển. Nhiều võ sinh nhỏ tuổi ngày ngày học tập, rèn luyện sức khỏe để góp phần xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước.
. Nguyễn Văn Chương
Sách võ từ một ngôi chùa
Chùa Long Phước thuộc huyện Tuy Phước của đất võ Bình Định. Chùa nép mình dưới bóng tre xanh hiền hòa của làng quê Việt Nam muôn thủa. Trong chùa, sớm chiều vang lên tiếng mõ, tiếng tụng kinh của các nhà sư tan vào làn sương bảng lảng. Cùng với sự tĩnh lặng của không gian là sự miệt mài, lặng lẽ tập luyện võ thuật của các môn sinh.
Đáng quí hơn là từ ngôi chùa này, các nhà sư trụ trì đã hiến cho ngành thể dục thể thao tỉnh, đặc biệt là các võ sư những tài liệu quí giá về võ thuật trong những cuốn sách mà sư tổ của họ truyền lại.
Nhà sư Hạnh Hòa trụ trì chùa Long Phước cho biết về vị sư tổ của mình. Ngài có pháp danh là Hư Minh, còn tên thật, quê quán ở đâu không ai biết. Nhà sư Hư Minh sống dưới thời vua Lê Chiêu Tông. Do Nam Bắc phân tranh Trịnh - Nguyễn, ngài sớm bị mồ côi cha mẹ, phiêu bạt khắp nơi kiếm sống và tìm thầy học võ mong giúp ích cho đời.
Sau ngót 40 năm trời công phu học tập võ nghệ, sư tổ đã sưu tầm được nhiều bài võ cổ từ thời Hồng Bàng, Hùng Vương đến các chiêu pháp võ công siêu việt của các danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão hay như bài kiếm pháp của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cùng các danh sư làng võ, ẩn sĩ nhiều đời truyền lại. Sau đó, sư tổ hệ thống lại và phân ra các bậc từ thấp đến cao, phổ vào dạng toán số cho ngắn gọn, dễ nhớ. Lại có đủ các phép binh thư đồ trận sắp xếp theo từng trình độ. Bộ binh thư dày chưa quá 1.000 trang, có tới hơn 2.000 bài thảo của thập bát ban binh khí và phần phụ lục cho các binh khí đặc dị. Cuốn kỳ thư đó có tên "Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp".
Nhà sư Hạnh Hòa cùng đồng đạo Vạn Thanh đã tận tâm truyền dạy các bài võ cổ cho các môn sinh đến học và chép một số trang trong cuốn "Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp" tặng Sở Thể dục Thể thao Bình Định. Sau đó ít lâu, hai nhà sư chùa Long Phước lại tìm được một số trang cuốn kỳ thư khác có tên gọi "Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thảo quyền". Cuốn này có 2 tập, tập thứ nhất là "Tây Sơn liệt quang chi binh pháp", tập thứ hai là "Phò Đại Nam triều chi tướng thao". Sách chép tiểu sử của một số danh tướng Nhà Tây Sơn, các bài võ nổi tiếng của họ và cắt nghĩa nguồn gốc, xuất xứ bài võ đó.
Đây là những cuốn sách võ vô cùng quí giá cần được ngành TDTT quan tâm khai thác, học tập, bảo tồn và phát huy.
. Nguyễn Văn Chương
"Thần nhãn" Mai Thanh Tuấn
Trong võ thuật, khi đánh giá chất lượng biểu diễn một bài quyền, các giám khảo sẽ lần lượt lưu ý các yếu tố: hình - ý - thần.


VĐV Mai Thanh Tuấn biểu diễn quyền
Yếu tố đầu tiên - "Hình", nói nôm na là người biểu diễn phải thực hiện đủ và chính xác các động tác; và hầu hết khi đã ra biểu diễn vận động viên nào cũng đáp ứng được yếu tố này. Yếu tố thứ hai - "Ý", tương đối khó hơn, theo đó động tác của người biểu diễn phải đáp ứng tốt các đòi hỏi về tốc độ nhanh, chậm; động tác đúng-đủ và đẹp đã đành mà ngay cả bộ vị cũng phải chính xác. Yếu tố cuối cùng - "Thần", chính là điểm để phân định trình độ cao thấp, thiên tư võ học của mỗi người.
Cũng chính bài quyền ấy, cũng chính người biểu diễn ấy nhưng nếu không rơi vào điểm thăng hoa, nhiều khi bài quyền chỉ đáp ứng được hai yếu tố đầu mà không có được yếu tố thứ ba. Ở đội tuyển võ cổ truyền Bình Định có một VĐV thường xuyên đạt đủ cả ba yếu tố "hình - ý - thần" khi biểu diễn quyền đó là Mai Thanh Tuấn.
Mai Thanh Tuấn sinh năm 1989, quê ở Nhơn Phú, TP Quy Nhơn. Từ lúc 8 tuổi, Tuấn đã theo học võ cổ truyền với thầy Trần Duy Linh, hiện nay là HLV môn võ cổ truyền ở nội dung biểu diễn của Sở TDTT. Có thiên tư tốt lại được thầy tận tình chỉ bảo, nhờ khổ luyện Tuấn đã trở thành VĐV giỏi. Năm 1999, khi vừa tròn 10 tuổi, Tuấn tham gia Giải võ cổ truyền trẻ toàn quốc và đoạt ngay HCB. Một năm sau, Tuấn lại tiếp tục mang về cho Bình Định 1 HCB ở giải trẻ toàn quốc. Trong hai năm 2001 và 2002 trên đấu trường quốc gia, Tuấn gặt một lúc 1 HCV, 3 HCB và 1 HCĐ. Đến năm 2004, Tuấn lại tiếp tục đoạt thêm 1 HCB, 2 HCĐ ở giải trẻ và 2 HCB ở giải vô địch toàn quốc.
Đường dẫn đến thành công của Mai Thanh Tuấn không đơn giản. HLV Trần Duy Linh cho biết: "Tuấn đến với võ thuật tương đối sớm, đây là một lợi thế lớn vì sẽ có nhiều thời gian để khổ luyện đòn thế. Được bố trí là VĐV biểu diễn, Tuấn không chỉ chịu khó tập động tác mà chịu khó tìm hiểu tinh túy của từng động tác một, động tác nào cần nhanh, động tác nào cần chậm em để ý rất kỹ. Ngay cả vẻ mặt ánh mắt cũng thế. Nhiều người hay nói đùa là Thần nhãn Mai Thanh Tuấn là vì thế. Khi biểu diễn võ thuật rất nhiều động tác, đòn thế cần kết hợp với những cử chỉ quyết liệt, mắt phải rực sáng, ngay cả một cái liếc ngang cũng phải rất sắc mới đạt. Nhưng đôi khi quyền xuất ra cũng phải nhẹ nhàng như gió thổi mây bay, ánh mắt phải từ hòa. Tuấn có thiên tư, lại chịu khó nên sẽ còn tiến xa".
. Công Tâm
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:49 am

Năm Gà kể chuyện Hùng Kê Quyền
Cuối tháng 9 năm 2004, trong đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam tham dự Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tại Chungju (Hàn Quốc), lão võ sư 77 tuổi Ngô Bông (Quảng Ngãi) đã biểu diễn 3 bài quyền cổ của võ cổ truyền Việt Nam, gồm: Hùng Kê Quyền, Lưỡng Kinh Hương và Đại Đao. Bài biểu diễn Hùng Kê Quyền của lão võ sư Ngô Bông đã tạo được tiếng vang lớn tại Liên hoan (với sự tham dự của hơn 70 môn phái võ thuật trên khắp thế giới). Tương truyền, Hùng Kê Quyền là do ông Nguyễn Lữ (1754 -? ), qua nghiên cứu các thế gà đá (chọi) nhau, đã sáng tạo ra. Nhân dịp năm Gà, xin kể lại vài chuyện góp nhặt về Nguyễn Lữ và Hùng Kê Quyền.


Từ thế gà chọi này, Nguyễn Lữ đã sáng tạo ra Hùng Kê Quyền (ảnh: Văn Lưu)
Nguyễn Lữ là em thứ ba sau Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Lớn lên theo hai anh xuống Bằng Châu (An Nhơn) thụ giáo ông Đinh Chảng hai năm rồi lên An Thái, theo học văn lẫn võ cùng thầy Trương Văn Hiến. Theo Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao, "Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, tánh nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông học văn nhiều hơn học võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên về môn miên quyền... Nguyễn Lữ đã được thầy Hiến chân truyền cho môn miên quyền." Có lẽ vì thể trạng và khí chất như vậy, Nguyễn Lữ đã nghiền ngẫm và sáng tạo ra Hùng Kê Quyền, một bài võ phù hợp với mình cũng như phù hợp với thân hình bé nhỏ của người Việt.


Thế Xuyên hầu độc tiễn trong Hùng Kê Quyền do lão võ sư Ngô Bông biểu diễn (ảnh: Công Tâm)
Theo yêu cầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lúc bấy giờ, làm sao chỉ trong một thời gian ngắn, phải huấn luyện cho các nghĩa quân Tây Sơn tinh thông võ nghệ (muốn tinh thông võ Tàu, ít ra cũng phải mất 10 năm rèn luyện) theo phương châm: Yếu có thể đánh mạnh/ Thấp có thể đánh cao/ Nhỏ có thể đánh lớn/ Ít có thể đánh nhiều. Và yêu cầu bức thiết đó đã khiến Nguyễn Lữ không thể thờ ơ. Qua nghiên cứu các thế gà đá nhau, ông đã áp dụng vào võ thuật, từ đó rút ra lối võ dùng yếu thắng mạnh, dùng mềm thắng cứng. Ông cũng nghiên cứu các thế đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cái thế chống đỡ của con gà nhỏ thường chui luồn, xỏ vỉa, để rồi tạo ra các thế lặn hụp, tránh né, đến phản công. Cuối cùng, ông đã chắt lọc, sáng tạo ra bài quyền mang tên Hùng Kê Quyền. Cùng thời gian này, Nguyễn Huệ đã sáng tạo ra bài Nghiêm Thương còn nữ tướng Bùi Thị Xuân thì sáng tạo bài Song Phượng Kiếm.


Một thế của Hùng Kê Quyền do một VĐV đội tuyển võ cổ truyền Bình Định biểu diễn (ảnh: Công Tâm)
Ngay sau khi ra đời, Hùng Kê Quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu quả của nó. Có thể nói, trong những chiến công oanh liệt của quân Tây Sơn, có phần đóng góp của Hùng Kê Quyền. Tương truyền, một võ sư Thiếu Lâm muốn khảo chứng uy lực của Hùng Kê Quyền đã đến khích bác: Đến như hổ báo kia đã hùng được chưa mà kê đã dám xưng hùng. Khi ấy Nguyễn Nhạc vốn đang chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà có rất nhiều hào kiệt tứ phương, ông không muốn mất hòa khí đang gầy dựng nên bảo em (Nguyễn Lữ) cố ý tránh né nhưng vị võ sư kia vẫn cứ muốn so tài. Cực chẳng đã, cuối cùng Lữ đành nhận lời giao đấu. Vào trận, trường quyền của vị võ sư kia như giông như bão liên tục phủ xuống nhưng Nguyễn Lữ vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại như chú gà con lanh lẹn trước một con gà lớn hung dữ nhưng chậm chạp. Suốt một canh giờ, quyền của vị võ sư kia vẫn không hề đụng được vào áo của Nguyễn Lữ. Và trong khoảnh khắc khi đối thủ lộ sơ hở, Nguyễn Lữ đã phản công và chỉ với một chiêu duy nhất, ông đã làm cho đối phương bị "nốc ao". Kẻ thách đấu lúc đó mới tâm phục khẩu phục.
Theo sách cũ, tháng 7 năm Đinh Mùi (1787), sau khi thành Gia Định thất thủ về tay Nguyễn Ánh, Đông Định vương Nguyễn Lữ xuống thuyền chạy về Quy Nhơn, chịu tội cùng anh, rồi lên ngựa trở về Kiên Mỹ thăm lại cố hương. Sau đó 2 anh em chia tay nhau, Nguyễn Nhạc tiếp tục chí lớn của mình, còn Nguyễn Lữ mây ngàn hạc nội, không còn ai biết rõ ông ở đâu. Dù vậy, bài võ Hùng Kê Quyền vẫn truyền lại đến hôm nay và trở thành một tài sản văn hóa quý báu không chỉ của riêng Bình Định.
. Thúc Giáp
Bài thiệu Hùng Kê Quyền
Phiên âm:
Lưỡng kê giao nạp thủy tranh hùng
Song túc tề phi trảo thượng xung
Trấn ải kim thương như bạch hổ
Thủ quan ngân kiếm tợ thanh long
Xuyên hầu độc tiễn tàng ư trác
Hồi thủ đơn câu thủ tự hung
Khiêu, tẩu, dượt, trầm, thiên sở tứ
Nhu, cương, cường, nhược, tận kỳ trung

Dịch nghĩa:
Hai con gà chọi nhau để tranh hùng
Hai chân cùng bay, móng chân đâm hất lên
Trấn biên ải, cây thương vàng như cọp trắng
Giữ cửa quan, lưỡi kiếm bạc tựa rồng xanh
Mũi tên độc đâm vào hầu được cất giấu từ mỏ gà (mổ thóc)
Quay đầu móc đâm vào ngực kẻ địch
Chạy, nhảy lên, luồn, hụp xuống là thế trời cho
Mềm, cứng, mạnh, yếu, tất cả đều trong bài quyền này.
Làng võ Bình Định xưa và nay
"Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hoặc "Trai An Thái, gái An Vinh", là những câu ca nói về các làng võ xưa ở Bình Định. Ba làng võ An Vinh, An Thái và Thuận Truyền là ba làng võ nổi danh biểu trưng cho miền đất võ Bình Định: An Vinh giỏi quyền, Thuận Truyền giỏi roi thuộc môn phái võ ta, còn An Thái giỏi côn thuộc phái võ Tàu.


Lão võ sư Lâm Ngọc Phú đang biểu diễn một bài roi
Làng An Vinh trước năm 1945 rất trù phú, dân cư đông đúc, nằm trải dài theo bờ bắc sông Côn. An Vinh thuở ấy thuộc xã Bình An, huyện Bình Khê nay thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn. Dân sở tại sống bằng nghề làm ruộng là chính, một số làm nghề buôn bán nhỏ, chài lưới, làm đậu miếng và dệt lụa…
Trước và sau năm 1945, An Vinh xuất hiện những võ sư có tên tuổi như Hương mục Ngạc, Cai Bảy (Cai Kềnh), Hương kiểm Cáo, Kiểm Mỹ, Hộ Hải, Hai Điển, Chín Đỗ... Đó là những viên chức làng xã dưới thời phong kiến. Những võ sư rất tinh thông võ nghệ, có sức mạnh hơn người, một mình có thể địch hàng chục, hàng trăm người như Cai Bảy, Hương kiểm Cáo hoặc sử dụng thành thạo đến mười tám món binh khí như Chín Đỗ. Những năm từ 1960 trở đi, một võ sư tên tuổi là Nguyễn Kim Bảng, là người kế thừa phái võ An Vinh đã nổi danh ở Gia Lai, Kon Tum và đã mở nhiều võ đường thu hút hàng trăm võ sinh thuộc nhiều dân tộc khác nhau.
Nơi đây vẫn truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện về một cô gái liễu yếu đào tơ hạ hàng chục địch thủ mà không mấy nhọc sức. Người con gái đó không ai khác hơn là cô Tám Cảng, con gái cưng của ông Hương mục Ngạc. Cô Tám đã từng thử sức nhiều võ sĩ đương thời thuộc nhiều môn phái khác nhau nhưng chưa hề thất bại. Cô Tám đã đi vào huyền thoại trong làng võ của đất Tây Sơn, như là một võ sư tên tuổi vào ra các đấu trường như chỗ không người. Sau này, phái "yếu" chưa có ai nối nghiệp được cô Tám cả. Có lẽ từ đó xuất hiện câu ca: "Trai An Thái, gái An Vinh" chăng?
Phía bắc làng An Vinh là làng Thuận Truyền, thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), chỉ cách An Vinh chừng 5-6 km, nổi tiếng về roi. Roi Thuận Truyền đi liền với quyền An Vinh. Làng Thuận Truyền phần lớn là đất núi đồi, nhân dân lam lũ với nghề nông, nghề vườn bốn mùa khoai sắn. Đất đai thì cằn cỗi, dân cư thưa thớt. Sư tổ của làng roi ở đây phải kể đến Hồ Ngạnh. Đường roi của ông thiên biến vạn hóa, hiểm hóc khôn lường. Một khi địch thủ đã lâm vào thế trận roi vây bủa của ông, chỉ nghe tiếng vù vù cũng đủ khiếp nhược tinh thần.
Bên kia sông Côn là làng An Thái nằm trải dài đến vài cây số. An Thái xưa nay vẫn thuộc xã Nhơn Phúc của huyện An Nhơn, là một thị tứ nho nhỏ thơ mộng, quyến rũ và cổ kính. Phố xá thì nhỏ hẹp, cũ kỹ, nhà cửa phủ rêu phong phảng phất một Hội An thu nhỏ. An Thái bấy giờ như một trung tâm huấn luyện võ thuật truyền thống thuộc phái võ Tàu. Thầy giáo Hiến từng đến đây mở trường dạy học và đã được anh em Tây Sơn đến xin thọ giáo. Nhân dân An Thái vốn có truyền thống thượng võ và rất yêu thích võ thuật. Nhà giàu có thì thuê thầy võ đến truyền dạy cho con cháu, nhà nghèo cũng phải tìm cách gửi gắm cho võ sư nào đó vò vẽ năm ba đường côn, bài quyền. Thành thử, đã làm "trai An Thái" thì phải biết võ nghệ. Võ sư Tàu Sáu là người nổi tiếng nhất ở làng võ An Thái. Nhưng sau này, An Thái đã phân ra nhiều chi phái nhỏ hơn, có phái lại lai cả võ ta lẫn võ Tàu. Hiện nay, ở An Thái có đến bốn lò võ lớn là lò võ Bình Sơn, Hải Sơn, Quách Cang (tức phái Tàu Sáu), và Hồ Hoành. Trong đó võ Bình Sơn là đông hơn cả.


Cháu ngoại của lão võ sư Lâm Ngọc Phú đang biểu diễn một bài quyền
Nói đến võ Bình Định là phải kể đến các làng võ An Vinh, Thuận Truyền, An Thái, một thời đã là cái nôi của môn võ thuật Bình Định từng làm rạng danh đất Tây Sơn lịch sử. Theo lão võ sư Lâm Ngọc Phú, chưởng môn võ đường Bình Sơn, kể rằng: "Ngày xưa, vùng đất này thường hay tổ chức Hội đổ giàn, cướp heo quay. Đó là dịp để những người học võ, những lò võ, những làng võ thi thố tài năng với nhau, lễ vật cướp được không lớn nhưng đó là danh dự uy tín của người học võ…".
Ngày xưa, người học võ là học cả đời, có người theo học võ từ khi tóc còn để chỏm cho đến khi lấy vợ, sinh con mà vẫn còn học. Ví như lão võ sư Phan Thọ, hiện đang ở Bình Nghi, Tây Sơn, ông theo học võ từ thuở thiếu niên, khi lập gia đình, vợ ông đã bán 2 con bò để lấy tiền cho ông tiếp tục "tầm sư học võ".
Ngày nay, các lò võ ở An Vinh, An Thái, Bình Nghi vẫn còn mở lớp dạy võ cho thanh thiếu niên trong vùng và các vùng lân cận; có võ đường là "vệ tinh" cung cấp VĐV cho Sở TDTT. Thế nhưng theo võ sư Lâm Ngọc Phú, thì: "Bây giờ thanh thiếu niên học võ theo kiểu "cấp tốc", học cho có miếng để tự vệ, phòng thân chứ không khổ luyện như lớp cha anh ngày trước…".
. Lưu Nguyễn
Hướng tới Festival Quy Nhơn 2007: Ai về Bình Định mà chơi
Bình Định là miền đất mang những nét văn hoá đặc sắc lưu truyền từ hàng nghìn năm nay. Đó là nơi trong quá khứ thường xuyên diễn ra những giao thoa và tiếp biến văn hoá, "hòa huyết" những nền văn hoá khác nhau, "chồng mờ" lên những lớp tầng văn hoá riêng biệt để tạo nên một bức tranh toàn cảnh độc đáo về văn hoá bản địa. Đại thể là nơi rất đáng về để chơi.



Quy Nhơn có rất nhiều điều kiện để trở thành một thành phố biển có thương hiệu.

Hạt nhân văn hóa
Có lần trao đổi với anh Văn Trọng Hùng - Giám đốc Sở VH-TT Bình Định về ý tưởng tổ chức Festival Quy Nhơn 2007, tôi đề nghị các anh nên lấy ngã ba Phú Tài làm tâm điểm,vạch một vòng tròn có bán kính khoảng 30 km là đã "khoanh" được khu vực chính sẽ diễn ra festival, gồm cả Quy Nhơn - Nhơn Hội, Tây Sơn và vùng phụ cận, cả An Nhơn "đất cổ" của Bình Định, cả vùng núi Bà linh thiêng với cảnh đẹp hùng vĩ. Rồi Tuy Phước vùng đất của thơ và nem chợ Huyện, có "vạn" Gò Bồi nổi tiếng với nước mắm và thơ Xuân Diệu.Và nguyên con đường dọc biển từ Quy Nhơn đi Sông Cầu (Phú Yên) - một trong vài con đường dọc biển đẹp nhất nước ta. Trên một vùng đất có diện tích không rộng lắm ấy đã "thâm canh" tầng tầng văn hoá, tầng tầng lịch sử và cơ man nào là thắng cảnh.
Festival, nghĩ cho cùng, cũng là hình thái lễ hội nhằm "cô đặc" những điểm du lịch, lan tỏa những "mạng" du lịch với nhiều sắc thái khác nhau, và phát hiện những tiềm năng du lịch bấy lâu còn ẩn giấu ngay trước mắt chúng ta. Bất cứ hình thái du lịch nào cũng có thể quy tụ vào văn hoá, cũng họ hàng gần xa với văn hoá. Ngay với du lịch thiên nhiên, du lịch "hoang dã" mà thiếu đi những ý tưởng văn hoá, những "hạt nhân văn hoá" thì cũng không thành.
Ở Bình Định người ta có thể chứng kiến hiện tượng kỳ thú khi Tháp Chàm "giao lưu" với chùa Thập Tháp, khi thành Hoàng Đế chồng lên thành Đồ Bàn, và những "làng võ Tây Sơn" lại liền kề với "làng rượu Bàu Đá", và đầm Thi Nại không chỉ là nơi từng diễn ra những trận thủy chiến hoành tráng trong quá khứ mà còn là nơi "kết nối" giữa Quy Nhơn với KKT Nhơn Hội đang thành hình. Mà ngay trong lòng khu kinh tế lớn này cũng sẽ nổi lên những điểm du lịch biển tuyệt vời.
Nghĩa là với Bình Định bây giờ, "sờ" vào đâu cũng có thể chạm những tiềm năng du lịch. Vấn đề là làm sao cho chúng "lộ sáng" ra trên các bản đồ tour của các hãng lữ hành. Festival chính là hoạt động nhằm "bản đồ hóa" khả năng du lịch của một vùng đất.
Festival "kích cầu" du lịch
Không phải vì bây giờ đang có "phong trào festival" mà Bình Định "chạy theo phong trào". Cũng không phải vì cần "thu nóng" vài chục hay vài trăm tỉ đồng mà vội vã tổ chức festival. Gạt ra ngoài kiểu tổ chức "lễ hội" đơn thuần hình thức, lấy "ba hoa" làm chính, lại phải thấy festival chính là một dịp để quảng bá, thu hút, tự giới thiệu mình với bè bạn gần xa, và cũng là một kiểu "kích cầu" trong du lịch và thương mại.
Nếu du lịch là hoạt động thường niên, theo mùa, theo tour, theo nhu cầu du khách, thì festival chính là một hoạt động nhằm thu hút, quy tụ những hình thái du lịch khác nhau về cùng "một mối" và trong một thời điểm. Với festival Quy Nhơn 2007, có lẽ thích hợp nhất về thời tiết và thời điểm thu hút du khách là tiết Thanh Minh, đầu tháng 3 âm lịch, đầu tháng Tư dương lịch. Đó là tiết cuối xuân đầu hạ với gió nam non và biển dịu sóng, rất thích hợp với những tour du lịch biển đảo. Nếu tổ chức festival vào ngày Mùng 5 Tết Nguyên đán - trùng với Lễ hội Tây Sơn - thì được trong ngày Mùng 5 nhưng lại khó kéo dài vì lý do thời tiết và cũng vì du khách chưa thể lên đường chơi dài ngày.
Dĩ nhiên, với lần đầu tổ chức festival thì phải nhắm đến số lượng khách nội địa, sau đó mới là khách du lịch nước ngoài.Vùng Tây Sơn hạ đạo và Tây Sơn thượng đạo mà tâm điểm là Bảo tàng Quang Trung sẽ là một điểm đến lớn trong festival này. Nhưng tên gọi festival thì nên lấy là Festival Quy Nhơn 2007. Bởi trong hai chữ "Quy Nhơn" đã hàm đủ ý nghĩa của festival này: một Lễ hội nhằm Quy tụ lòng người,tạo sự kết nối trong tỉnh và ngoài tỉnh, trong nước và ngoài nước ,một Lễ hội biểu dương vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp văn hoá, cũng là vẻ-đẹp-người của vùng đất Bình Định.
Lâu nay, nhiều người dân ở đây phàn nàn là tiềm năng du lịch của địa phương mình không hề kém so với một số địa phương khác như Bình Thuận hay Quảng Nam, Đà Nẵng…Vậy mà du khách vẫn chưa biết nhiều về vùng đất Quy Nhơn-Bình Định, họ vẫn thường đi ngang qua chứ ít chịu "cắm sào" ở lại chơi thăm thú trong một thời gian, mặc dù Quy Nhơn không thiếu những khách sạn nhà nghỉ resort với tiện nghi và giá cả phù hợp với nhiều loại du khách. Festival Quy Nhơn 2007 chính là một Lễ hội "kích cầu" để du khách có dịp biết nhiều đến vùng đất đầy những bí ẩn văn hoá và thắng cảnh thiên nhiên này.



Tiết cuối xuân đầu hạ với gió nam non và biển dịu sóng, rất thích hợp với những tour du lịch biển đảo. Ảnh: B.P

"Lòng người" cũng là một lợi thế du lịch
Trở lại với cái tên đầy ân nghĩa: Quy Nhơn. Sự hồ hởi, bao dung, cởi mở, vui vẻ, trải lòng với khách của người Bình Định nếu được phát huy đúng mức sẽ là một lợi thế rất lớn cho du lịch.Lâu nay chúng ta khi nhắc đến lợi điểm du lịch ở một vùng đất thường vịn vào "4 chữ S". Những "chữ" ấy Quy Nhơn đều có. Nhưng còn một chữ S nữa là Soul (tâm hồn, cảm xúc) mà người ta ít nhắc đến trong du lịch nhưng lại là "chữ" rất quan trọng-thậm chí nó là linh hồn (soul) của du lịch. Cái ấy người dân Quy Nhơn, người dân Bình Định khá giàu có, và sẵn sàng "chi" ra một cách hào phóng.
Nhớ những năm gần đây, cứ đến mùa thi là người dân Quy Nhơn lại dành nhà riêng của mình đón các em cháu "sĩ tử" thập phương đổ về ứng thí tại trường Đại học Quy Nhơn.Với cách đón tiếp thân tình và cởi mở học sinh đi thi ấy mà chuyển sang đón khách du lịch (dĩ nhiên có nâng cấp nơi ở) thì chắc chắn du khách sẽ rất ấm lòng khi về Bình Định dự festival 2007.
Sự cởi mở phóng khoáng của người đất võ chính là một lợi điểm của du lịch.Và cái hồn người Bình Định người Quy Nhơn khi thể hiện một cách tự nhiên sẽ thu hút du khách.Sự thân thiện của người dân địa phương bao giờ cũng là món quà quí mà du khách sẽ lưu giữ sau mỗi chuyến đi, cùng với cảm giác nắng gió mênh mang của vùng đất ấy.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:50 am

"Nối mạng" và "kết điểm" du lịch festival Quy Nhơn 2007
Có mấy "mạng" du lịch mà du khách rất dễ "nối" khi về Quy Nhơn Bình Định: đó là "mạng" nghệ thuật Chàm mà tiêu biểu là những tháp và quần thể tháp nổi tiếng như Dương Long, Bánh Ít, Cánh Tiên, Tháp Đôi, Phú Lốc, Thủ Thiện… Giới thiệu cho đúng mức, đúng bài bản, "mạng Tháp Chàm" này của Bình Định xứng đáng được công nhận là Di Sản thế giới.
Nếu ở Di sản văn hóa Mỹ Sơn( Quảng Nam) các tháp Chàm quần tụ "cô đặc" trong một vùng đất một thung lũng hẹp, thì với Bình Định các Tháp Chàm lại "từ trời xanh rơi vài giọt…" và rải ra trên một vùng đất rộng đầy những cổ tích như câu thơ vô cùng chính xác của Văn Cao. "Nối mạng" những cụm Tháp Chàm ở Bình Định lại,chúng ta sẽ có một tour du lịch văn hoá và nghệ thuật kỳ thú và độc đáo. Bên cạnh đó, những làng nghề gốm Chăm cổ truyền lại mang tới cho du khách những phẩm vật mà họ sẽ lưu giữ trong những bộ sưu tập du lịch của mình.Gốm Gò Sành, rồi những tác phẩm điêu khắc Chàm từ đá sa thạch ở An Nhơn khiến du khách ngỡ ngàng không biết mình đang cầm trên tay những sản phẩm mỹ thuật của hôm nay hay những cổ vật từ nghìn năm trước. Trình độ nghệ thuật của những nghệ nhân ở vùng đất này và những tác phẩm của họ chính là một điểm rất thu hút du khách cả trong và ngoài nước.
Có một "mạng du lịch" cũng rất thú vị trong festival Quy Nhơn 2007-đó là "mạng chợ Bình Định". Những chợ quê ở Bình Định như chợ Gò, chợ Đập Đá, chợ Gò Găng, chợ Huyện, chợ An Thái, chợ Phú Phong, chợ Mỹ Yên, mỗi chợ một vẻ, một dáng nét, một "character", một "nuance" nhưng sẽ khiến du khách ngây ngất vì những "hương vị" đặc trưng của nó.Với du khách Âu-Mỹ, họ đến ta là để "đi chợ"-chợ quê- chứ không phải đi siêu thị.Nếu "đi chợ" là hình thức du lịch giúp du khách thư giãn tâm trí thì "đi chùa" lại là hình thức khiến du khách thanh thản tâm hồn, bồi đắp tâm linh. "Du lịch chùa" ở festival Quy Nhơn 2007 sẽ hấp dẫn bởi những ngôi chùa cổ ở đất này mỗi chùa mỗi dáng vẻ kiến trúc và đều được tọa lạc ở những vùng đất u tịch. Trong một ngày, du khách có thể vừa đi chùa vừa đi chợ lại vừa đi viếng các Tháp Chàm, ăn nem chợ Huyện và uống rượu Bàu Đá, thưởng thức trống trận Quang Trung và xem Tuồng cổ, học cách làm đồ gốm và cả học…võ trong các lò võ làng võ nổi tiếng của đất võ Bình Định như An Thái, Thuận Truyền, An Vinh…"Mạng làng võ Bình Định" cũng sẽ là một mạng du lịch độc đáo và rất hút du khách.
Từ những "mạng" như thế trong festival lại nổi lên những "điểm" mà du khách không thể không "kết". Điểm du lịch nổi bật nhất dĩ nhiên là khu Bảo tàng Quang Trung ở Tây Sơn. Đây là một trong vài ba khu Bảo tàng đẹp nhất nước ta hiện nay.Với hệ thống đường sá khá tốt, từ "điểm lớn" Bảo tàng Quang Trung đến một "điểm lớn" khác là KKT Nhơn Hội du khách chỉ mất hơn 1 giờ ngồi xe. "Chiếc cầu thế kỷ 21" - cầu vượt biển Quy Nhơn-Nhơn Hội cũng sẽ là một điểm thu hút du khách. Họ sẽ rất thú vị vì được đi ngang qua đầm Thi Nại nổi tiếng bằng…xe, chứ không phải bằng đò giang. Mà cũng có những con đò sẵn sàng chở khách ngao du trên đầm, lai rai mấy món hải sản độc đáo mà ngư dân vừa khai thác. Với những " mạng" và những "điểm" du lịch như thế, festival Quy Nhơn 2007 nếu được tổ chức tốt sẽ trở thành một Lễ hội mà những ai có "máu du lịch" trong nước cũng như những du khách nước ngoài không thể bỏ qua.Vấn đề bây giờ là phải giới thiệu, tiếp thị như thế nào để du khách có thể biết chương trình Lễ hội từ nửa năm trước.Bình Định đang có kế hoạch "tăng tốc" du lịch, hy vọng du khách khi về miền đất thượng võ và hiếu khách này trong Festival Quy Nhơn 2007 sẽ được hài lòng. Và "một đi" còn "trở lại".
• Thanh Thảo

Kỹ thuật căn bản của một số môn võ cổ truyền Bình Định: Phương pháp tập phối hợp tay, chân

"Thảo bộ" là bài quyền nhiều thế võ chính, phụ được phối hợp tập luyện liền nhau và liên tục của "bộ pháp", "thủ pháp", "thân pháp" và "nhãn pháp".

Ta đã biết "thảo" là bài quyền phối hợp của nhiều thế võ, nhiều bộ pháp, thủ pháp, thân pháp… và đi từ đơn giản đến phức tạp. Biết vậy, ta phải chú tâm luyện tập cho thuần phục, chính xác, công phu. Từ đó, chắc chắn sức khỏe và võ công của người luyện tập sẽ tiến bộ nhiều.

Sau đây, chúng tôi giới thiệu hai bài "thảo bộ" đơn giản ở phần phối hợp này.

- Thảo Bộ Liên Ba: Thảo gồm ba bộ. Mỗi bộ đánh liền ba lần:

Bộ một: Đánh một "Ngọn Mộc" đâm hai "Ngọn Kim".

Bộ hai: Đánh một "Ngọn Mộc" xóc hai nắm quyền lên theo "Ngọn Thủy".

Bộ ba: Bắt đâm ba "Ngọn Thổ".

a) Những động tác Bái tổ:

Trụ "Ngựa Tứ Bình".

Tiếp đến, đặt ngang bàn chân phải, chân trái bước lên, đứng theo tư thế "Ngựa Kim Kê" tay trái nắm quyền lại, tay phải xòe cương đao, nắm cú quyền tay trái ép sát vào lòng bàn tay cương đao (tay phải) rồi thủ dưới vú bên ngực trái. Mắt nhìn về phía trước.

b) Những động tác ở bộ một:

- Lần 1:

Ở tư thế "bái tổ" chân phải bước lên phía trước một bước và đứng theo "Ngựa Kim Kê" đồng thời tay phải đánh "Ngọn Mộc" xuống, tay trái giật chỏ về phía sau, thủ ngang hông.

Kế tiếp tay trái đâm quyền thẳng ra phía trước và tay phải lại giật chỏ về sau, quyền thủ ngang hông.

Thủ vào hông xong, tay phải lại đâm quyền thẳng ra phía trước, tay trái lại giật trỏ về sau. Thủ quyền ngang hông. Thủ quyền khi đánh, mắt nhìn thẳng về phía trước.

- Lần 2:

Đưa bàn chân trái ở phía sau lên thế chỗ bàn chân phải ở trước dời về sau thế chỗ bàn chân trái ở sau, đồng thời tay trái đánh "Ngọn Mộc" xuống, tay phải giật chỏ về sau. Thủ quyền ngang hông.

Rồi tay phải tiếp tục đâm quyền thẳng ra phía trước, tay trái giật chỏ về sau. Thủ quyền ngang hông. Tiếp đến, tay trái lại đâm thẳng quyền ra phía trước, tay phải giật chỏ về sau, thủ quyền ngang hông. Khi đánh, mắt nhìn thẳng về phía trước.

- Lần 3:

Hoán vị bàn chân phải ở sau lên trước thế chỗ bàn chân trái, bàn chân trái rút về sau thế chỗ bàn chân phải, đồng thời tay phải đánh "Ngọn Mộc" xuống. Tay trái đâm quyền thẳng ra, tay phải giật chỏ về sau. Thủ quyền ngang hông.

Tiếp đến, tay phải lại đâm quyền ra, tay trái rút về thủ quyền ngang hông. Mắt nhìn về phía trước trong lúc đánh.

Sau đó xoay "ngựa" và người theo chiều tay trái chuyển về phía sau, và chỉnh "ngựa" đứng đúng theo "Ngựa Kim Kê", tay quyền thủ lên.

c) Những động tác ở bộ hai:

- Lần 1:

Ở tư thế bộ một, ta bước chân phải lên một bước, đồng thời tay phải đánh "Ngọn Mộc" xuống, tay trái giật chỏ về sau. Thủ quyền ngang hông.

Tiếp đến, hai nách kẹp lại, đồng thời xòe thẳng hai nắm quyền lên trên và dừng lại ở vị trí dước cằm. Mắt nhìn thẳng về phía trước mặt.

- Lần 2:

Tay phải bắt qua và dừng lại bên tai phải, bàn chân trái từ sau đưa lên thế chỗ bàn chân phải ở trước, và bàn chân phải rút về thế chỗ bàn chân trái, đồng thời tay trái đánh "Ngọn Mộc" xuống, tay phải rút về thủ quyền ngang hông.

- Tiếp đến, hai nách kẹp lại, xóc thẳng hai nắm quyền lên trên và dừng lại ở vị trí cằm. Mắt nhìn thẳng phía trước.

- Lần 3:

Tay trái bắt qua bên trái, bàn chân phải đưa lên trước thay chỗ bàn chân trái và bàn chân trái chuồi về sau thay chỗ bàn chân phải, đồng thời tay phải đánh "ngọn mộc" xuống, tay trái rút về thủ quyền ngang hông.

Kế tiếp, hai nách kẹp sát lại, xóc hai nắm quyền thẳng lên và dừng lại dưới cằm.

Ở tư thế bộ hai, ta xoay "ngựa" và người theo chiều tay trái chuyển ngược mặt trước (mặt tiền lúc bái tổ), chỉnh lại "ngựa Kim Kê", hai tay thủ quyền.

d) Những động tác ở bộ ba:

- Lần 1: Tay phải đâm "ngọn thổ" xuống đất, tay trái giật chỏ về sau, thủ quyền ngang hông.

- Lần 2: Chân phải đưa ra trước thế chỗ bàn chân trái, bàn chân trái chuồi về sau thay chỗ bàn chân phải, đồng thời tay phải đưa lên ngang tai phải, tay trái đâm "ngọn thổ" xuống đất, tay phải giật chỏ về sau, thủ quyền ngang hông.

- Lần 3: Chân trái lại đưa lên trước, bàn chân trái thế chỗ bàn chân phải, bàn chân phải về sau thế chỗ bàn chân trái, đồng thời tay trái bắt lên dừng ngang tai trái, tay trái đâm "ngọn thổ" xuống đất, tay trái rút về thủ quyền ngang hông.

e) Những động tác bái tổ hết bài quyền:

Ở tư thế bộ ba, ta xoay ngược bàn chân trái theo chiều vai bên trái, chân phải bước lên một bước, đứng theo "Ngựa Kim Kê", tay trái nắm quyền lại, tay phải xòe cương đao, tay quyền áp sát vào lòng bàn tay cương đao, thủ ngay dưới vú bên phải, "bái tổ".

. Theo "Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc, đặc trưng võ cổ truyền Bình Định"
Phương pháp tập luyện về tay

Tập về tay là cách tập luyện đôi cánh tay và đôi bàn tay trong đánh võ. Luyện tập để có đôi bàn tay nhanh nhẹn, biến hóa linh động, rắn chắc... Muốn được như vậy, cần phải ra công luyện tập đúng phương pháp và khoa học. Có đôi bàn tay làm khí giới đa dạng thì trong tự vệ, chiến đấu phần chủ động có thể thuộc về ta.

* Tập phần bàn tay:

Đôi bàn tay là một khí giới đa dạng trong đánh võ vì lúc dùng quyền, khi dùng trảo, lúc đánh chưởng, khi dùng chỉ..., người có võ công cơ bản biết phối hợp, tập luyện và sử dụng đôi bàn tay thì thật là đáng sợ.

1. Tập quyền:

"Quyền" là nắm tay, tập hai nắm quyền, ta phải nắm bàn tay thật chặt, ngón cái ép sát vào đốt giữa của ngón trỏ và ngón giữa.

Trong tập luyện, ta nên xòe bàn tay ra rồi nắm cú lại thật chặt. Ta tập nhiều lần trong mỗi bài tập. Những lần sau nắm chặt hơn những lần trước. Khi tập, ta nên tì hai chỏ vào hông để luyện tập nắm quyền.

2. Tập Cương Đao:

Bàn tay xòe thẳng, ngón cái cong, ép vào lòng bàn tay, bốn ngón tay kia xếp kín lại. Lúc luyện tập, ta nắm chặt, đấm, xỉa vào các vật mềm rồi dần dần đến vật cứng.

Nên nhớ không gây chấn động nhiều ở các đầu ngón tay.

3. Tập Trảo:

Bàn tay xòe ra, năm ngón tay hơi cong, vươn tới trước. Bàn tay có 5 ngón nên gọi là "Ngũ Trảo". Khi tập ta nên dồn lực vào đầu năm ngón tay.

4. Tập Chưởng:

Bàn tay xòe ra, lòng bàn tay hướng về trước, ngón cái tách riêng hướng thẳng lên trên, bốn ngón khép kín, hơi cong. Lực phát ra dồn ở lòng bàn tay.

5. Tập Chỉ:

Chỉ là cách luyện tập và sử dụng các ngón tay. Ta thường dùng "đơn chỉ" và "hợp chỉ".

a) Tập Đơn chỉ: Tập "Đơn chỉ" là tập ngón cái và ngón trỏ.

- Luyện tập ngón cái: Nắm cú tay thật chặt. Ngón cái chỉ thẳng tới trước và ép sát vào đốt giữa của ngón trỏ. Lực phát ra dồn ở đầu ngón tay cái.

- Luyện tập ngón trỏ: Ngón trỏ chỉ thẳng tới trước, ba ngón: giữa, đeo nhẫn và út nắm lại, ngón cái ép sát vào đốt tay ngón giữa và nắm chặt lại. Lực phát ra dồn vào đầu ngón tay trỏ. Đơn chỉ thường gây chấn thương ở các chỗ nhỏ, hẹp và mềm...

b) Tập hợp chỉ:

"Hợp chỉ" là cách tập phối hợp để tạo lực ở các ngón tay hay một vài nơi trên bàn tay. Hợp chỉ có nhiều cách, ở đây ta chỉ tập một số "Chỉ" cơ bản thường dùng.

- Tập Xà thao: Bốn ngón: trỏ, giữa, đeo nhẫn và út khép kín, hơi cong "Chỉ" ra trước, ngón cái chỉ thẳng ra trước, mặt trong ngón cái hướng vào lòng bàn tay như miệng con rắn đang há. Lực phát ra, lúc dồn vào ngón cái, lúc dồn vào đầu bốn ngón, lúc phân đều ở các ngón để chụp, kẹp, giữ.

- Tập Long giác: Ngón đeo nhẫn, ngón út và ngón cái gập lại, ép chặt. Hai ngón trỏ và giữa tách thành hình chữ V. Lực dồn ở hai ngón trỏ và giữa.

- Tập Hố trảo: Năm ngón tay cong đều, hơi hở ra như năm móng cọp. Lực phát ra dồn đều ở năm đầu ngón tay, chỉ này dùng để chụp, cấu, xé...

Hoặc ngón cái cong lại, ép sát vào lòng bàn tay, bốn ngón kia khép kín cong lại, tì bốn đầu ngón tay vào ngón cái, siết chặt lại hoặc đôi khi nhô đốt thứ nhất của ngón giữa cao hơn. Chỉ này, lực phát ra dồn ở đầu đốt thứ nhất của ngón giữa.

- Tập Hạc chỉ: Năm ngón tay chúm lại, các đầu ngón tay bằng nhau duỗi thẳng ra trước. Lực phát ra dồn ở điểm chúm của năm đầu ngón tay hay phần đốt xương nhô lên ở mu bàn tay của ngón trỏ.

- Tập Hầu chỉ: Bàn tay dựng đứng thẳng góc với đầu xương trụ và xương quay, năm ngón tay khép kín và cong lại.

Hoặc bàn tay để nhô phần cổ tay và mu bàn tay. Lực phát ra ở chưởng này là phần tiếp giáp ở cổ tay và hai gò bàn tay hay phần cổ tay và mu bàn tay, sau mới dồn đến các "Chỉ".

* Tập đôi cánh tay:
1. Tay Bắt, Chần căn bản:

Trụ "Ngựa Tứ Bình". Hai cú quyền thủ ngửa vào hông. Sau đứng ngựa thủ quyền tập Bắt, Chần.

- Tập Bắt - Chần thượng bộ:

Trụ "Ngựa Tứ Bình" thủ quyền vào hông, tay phải thủ yên nơi hông, tay trái đưa úp lên ngang tai bên phải rồi vặn ngửa tay ra hắt đến ngang tai bên trái thì dừng lại. Bàn tay có thể nắm quyền hay dùng chỉ, cạnh xương trụ ở ngoài (BẮT).

Tiếp đến, úp ngón tay lại, đưa qua tai bên phải. Lúc va chạm nơi cạnh bàn tay hay cạnh xương trụ (CHẦN). Tiếp đến, thủ tay trái lại nơi hông rồi tập tay phải BẮT, CHẦN như tay trái. Sau đó, đứng "Ngựa Kim Kê" thủ quyền tập BẮT, CHẦN.

BẮT CHẦN trung bộ:

Vẫn tư thế "ngựa" như trên, tay phải thủ nơi hông, tay trái đưa úp lên ngang vai bên phải rồi lật ngược lại đến khỏi hông trái thì dừng lại, bàn tay dùng Hổ trảo (BẮT)

Giữ nguyên tư thế BẮT, đưa úp tay qua hông bên phải. Điểm va chạm là mu bàn tay phần mặt trên của xương trụ và xương quay.

2. Tập Ngũ Hành Tay:

a) Tập Ngọn Kim Đâm: Trụ "Ngựa Tứ Bình". Hai tay thủ ngửa ở hai bên hông. Đưa tay phải lên, bắt qua bên tai phải. Bấy giờ tay trái đưa xoáy ra trước, đồng thời tay phải giật chõ về sau. Thủ quyền lại ngang hông.

Tay trái lại tiếp tục bắt lên và dừng lại ngang tai bên trái, tay phải lại đâm xoáy ra trước, tay trái giật chõ về sau. Thủ quyền ngang hông.

Cứ thế ta tập đâm nhiều lần trong mỗi lần tập. Nhớ nắm chắc cú quyền khi đâm ra. Hai mắt nhìn về phía trước.

b) Tập Ngọc Mộc đánh: Trụ "Ngựa Tứ Bình". Hai nắm quyền thủ hai bên hông. Đưa tay phải lên, bắt qua đến bên tai phải, bấy giờ tay trái đưa úp lên tới chân mày, đánh mu nắm quyền hướng xuống dưới rồi hất ngược mu nắm quyền lên, dừng ở vị trí cánh tay thẳng góc với ngực, đồng thời giật chỏ phải về sau. Thủ quyền ngang hông.

Tiếp đến tay trái lại bắt ngang tai trái, chân phải giở úp lên ngang chân mày, đánh mu nắm quyền xuống dưới rồi hất mu nắm quyền lên dừng lại ở vị trí cánh tay thẳng góc với ngực, đồng thời giật trỏ trái về sau và thủ quyền ngang hông.

Cứ thế ta tập đánh nhiều lần trong mỗi lần tập. Nhớ cú quyền nắm chặt trong khi đánh xuống và hất lên. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

c) Tập Ngọn Thủy Móc: Ở tư thế trụ "Ngựa Tứ Bình", tay phải bắt lên ngang tai bên phải, tay trái móc thẳng quyền từ hông lên và dừng lại ở vị trí dưới cằm đồng thời tay phải giật chỏ về sau. Thủ quyền lại ngang hông.

Ở tư thế vị trí đó, tay trái bắt qua dừng lại nơi bên trái, tay phải móc thẳng nắm quyền, tay trái giật chỏ về sau, thủ quyền ngang hông.

Cứ thế ta tập nhiều lần trong mỗi lần tập. Nhớ quyền nắm chặt khi tập. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

d) Tập Ngọn Hỏa né: Trụ "Ngựa Tứ Bình", hai tay thủ vào hông. Triển người, lắc vai trái né sang bên phải, rồi triển người lắc vai phải né sang bên trái.

- Khi né sang bên phải: Tay trái ép sát vào hông trái, nắm quyền thủ ngang hạ bộ. Tay phải thủ kề má bên trái. Mắt liếc ngó về bên trái.

- Khi né sang bên trái: Tay phải ép sát vào hông bên phải, nắm quyền thủ ngang hạ bộ. Tay trái thủ kề má bên phải. Mắt liếc, ngó về bên phải.

Cứ thế ta tập nhiều lần trong mỗi lần tập luyện.

e) Tập ngọn Thổ đâm xuống đất: Trụ "Ngựa Tứ Bình". Thủ hai nắm quyền ngang hông. Tay phải bắt ngang tai bên phải. Tay trái nắm quyền đâm thẳng xuống đất, đồng thời tay phải giật chõ về sau. Thủ quyền lại ngang hông.

Ở tư thế đâm đó, tay trái bắt quyền lên ngang tai bên trái, tay phải nắm quyền chặt đâm thẳng xuống đất, đồng thời chỏ trái giật về sau và thủ quyền ngang hông.

Nhớ tập đâm xuống nhiều lần trong mỗi buổi tập. Mắt ngó thẳng về phía trước.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:51 am

3. Tập Ngũ Hành cùi chỏ:

Hai chỏ, nếu được tập luyện công phu, thuần thục, rắn chắc... thì tác dụng trong bảo vệ và chiến đấu rất lợi hại. Chỏ ở phần căn bản cũng tập theo "Ngũ Hành".

a) Tập "Ngọn Kim" giật chỏ thẳng ra theo chiều vai:

Trụ "Ngựa Tứ Bình" thủ hai nắm quyền ngang hông, đưa nắm quyền tay trái lên ngang vai bên phải giật úp chỏ thẳng ra ngang vai trái.

b) Tập "Ngọn Mộc" đập chỏ ngang ra phía trước:

Ở tư thế "Ngọn Kim" của chỏ bên trái, ta đập chỏ thẳng ra phía trước mặt, dừng ở vị trí ngực và tay thẳng góc.

c) Tập "Ngọn Thủy" giật chỏ ra phía sau lưng:

Ở tư thế "Ngọn Mộc" của chỏ trái, ta giật thẳng chỏ ra sau lưng.

d) Tập "Ngọn Hỏa" tước trỏ lên ra phía trước mặt:

Ở tư thế đang tập đánh "Ngọn Thủy" ta đánh tước chỏ lên từ sau ra trước và dừng lại ở góc 45 độ tại nách.

e) Tập "Ngọn Thổ" găm nhỏ xuống đất: Ở tư thế "Ngọn Hỏa", ta găm xuống đất, nhưng găm lệch sang phía bên phải.

Tập xong tay trái, ta thủ quyền tay trái lại nơi hông rồi tập đến tay phải, như vừa tập ở tay trái. Lúc tập, mắt nhìn thẳng về phía trước.

. Theo "Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc, đặc trưng võ cổ truyền Bình Định"
Tập Ngũ Hành Chân (Cước pháp)

Khi tập luyện võ công, ta thường nghe: "Quyền ba, cước bảy". Từ đó, ta có thể nhận thấy rõ công dụng của "Ngũ Hành Chân". Xét về chiều dài, chân phải dài hơn tay. Do đó, phải luyện tập "Ngũ Hành Chân" cho thuần thục và công phu.

1. Ngọn Kim: (Tập đạp)

Đứng "Ngựa Kim Kê" hay "Bát Quái". Thủ quyền lên trước, co chân trước lên, gối cao hơn vế, mình nghiêng về phía sau, phóng chân đạp ra. Lực phát ra dồn ở gót chân. Đặt chân trước xuống đất, rút gối chân sau, xoay người đưa ra phía trước, nghiêng người, phóng chân đạp ra. Cứ thế ta tập liên hoàn. Hai tay thủ quyền, không dang ra.

2. Ngọn mộc:

Tập gạt chân từ trên xuống dưới. Đứng "Ngựa Kim Kê", đưa chân trước lên hơi xéo về phía trước bụng, dừng ở độ cao thích hợp, phát lực gạt chân xuống. Lựa phát ra, dồn ở gót chân và phải luyện đều hai chân.

3. Ngọn Thủy:

Tập đá trước, từ dưới lên. Đứng "Ngựa Kim Kê", gối chân sau rùn thấp, đá tước chân trước lên. Chấm chân trước xuống đất, dồn trọng lượng về chân trước, gối chân trước rùn xuống thấp, đá tước chân sau lên và cứ thế tập liên hoàn. Nên nhớ lực phát ra dồn ở hai gót chân, tay quyền thủ kín.

4. Ngọn Hỏa:

Tập rút chân về, tập bỏ chân tránh né. Đứng "Ngựa Kim Kê", rút gối thủ đòn, hoặc xê dịch chân tránh sang phải hoặc trái, hoặc triển chân, đưa người về phía sau, tay quyền thủ kín, tập đều hai bên.

5. Ngọn Thổ:

Tập đạp gót chân hay bàn chân xuống đất, hoặc găm gối xuống đất. Đứng "Ngựa Kim Kê", thủ quyền, chân trước rút gối cao hơn vế, phóng chân đạp xuống đất. Lực phát ra dồn ở gót chân hay cạnh bàn chân, tiếp đến tập chân sau và tập liên hoàn.

- Tập Di chuyển Ngựa: Di chuyển "ngựa" tức là tập cách hoán vị "ngựa" để thích nghi trong tập luyện và chiến đấu. Di chuyển "ngựa" có nhiều cách. Ở đây, ta tập một vài cách đơn giản.

1. Di chuyển theo Ngựa Biên (2 điểm)

Đứng "Ngựa Kim Kê" hay "Bát Quái". Thủ quyền chỉnh về phía trước. Khi tập, ta đưa bàn chân sau (B) đến vị trí bàn chân trước (A) và bàn chân trước (A) bỏ vào vị trí bàn chân sau (B). Cứ thế, ta tập liên tục và tập từ chậm đến nhanh dần lên.

2. Di chuyển theo Ngựa Tứ Bình: (4 điểm)

Đứng "Ngựa Kim Kê" hay "Bát Quái", chân trái trước, chân phải sau, bàn chân trái trước là điểm A, bàn chân phải sau là điểm B. Khi tập xê dịch, ta đưa B lên B' và A xuống A', và ngược lại A' lên A, và B' xuống B. Cứ thế ta tập đến khi thuần thục. Trong khi tập, tay quyền vẫn thủ.

3. Di chuyển theo Ngựa Ba Chân Hổ: (3 điểm)

Đứng "Ngựa Bát Quái" hay "Kim Kê", chân trái trước, chân phải sau, chân sau hơi xê qua bên mặt độ 5 cm, bàn chân trái là A, bàn chân phải là B. Khi tập di chuyển, ta đưa B lên C và A xuống B rồi ngược lại B lên A và C xuống B. Cứ thế, tập di chuyển cho thuần thục trên ba đỉnh của một đỉnh của một hình tam giác BCA rồi BAC.
Phương pháp luyện tập đôi chân và đôi tay trong môn quyền

Người xưa nói rằng: Học võ không phải để biết bài quyền, ngọn roi, thế đá là đủ, mà mục đích của học võ là nắm vững phương pháp luyện tập, tập đúng phương pháp theo chỉ dẫn của võ sư. Học võ không những chỉ để biết mà quan trọng là biết để sử dụng nó vào đúng mục đích đã chọn.

Đối với người học võ, đôi tay và bộ chân là vũ khí chủ lực và cực kỳ lợi hại để tự vệ và đánh trả đối phương. Nếu luyện tập công phu, có khoa học, có phương pháp đúng sẽ tạo ra sự hoàn thiện của đôi tay và đôi chân, làm cho nó tự chủ và biến hóa khôn lường.

* Phương pháp luyện tập về chân

- Tập ngựa: "Ngựa" là phần căn bản trọng yếu trong việc luyện tập võ công. Bởi vì "ngựa" phải mang thân thể của ta trong xê dịch, tránh né, lúc sang phải, khi qua trái, lúc tấn, lúc thối hoặc bám trụ để sử dụng thân pháp hay xuất phát khí lực... Các thế tấn (tức ngựa) là phần căn bản của chân. Do đó, ta cần chú tâm luyện tập công phu.

Ngựa trong võ có nhiều loại, ở đây ta chỉ tập một số loại cơ bản.

1. Ngựa Tứ Bình: Một loại ngựa cơ bản quan trọng. Ngựa Tứ Bình có thể gọi là "ngựa" cốt lõi, vì những "ngựa" này sau này là sự biến dạng của "Ngựa Tứ Bình".

- Lúc tập: Người đứng thẳng, hai bàn chân đặt sát nhau và song song. Ta dịch chuyển bốn lần như sau:

+ Lần 1: Tì hai góc chân vào mặt đất, xoay hai đầu bàn chân ngang với chiều vai.

+ Lần 2: Bấm hai đầu ngón chân cái vào mặt đất, banh hai gót chân ra ngoài và dừng lại ở vị trí hai bàn chân song song.

+ Lần 3: Tì hai gót chân vào mặt đất, xoay hai đầu bàn chân ngang với chiều hai vai lần nữa.

+ Lần 4: Bấm hai đầu ngón chân cái vào mặt đất, banh hai gót chân ra ngoài và dừng lại ở vị trí hai bàn chân song song.

+ Lần 5: Bây giờ ta ngồi xuống và dừng lại ở vị trí hai bắp vế ngang với gối.

CHÚ Ý: Trong lúc tập Ngựa Tứ Bình, xương sống phải giữ thẳng. Hai vai không nhúc nhích. Mắt nhìn thẳng về phía trước. Hai tay nắm cú chặt thủ vào hai bên hông. Răng hàm cắn chặt. Môi khép lại. Đầu lưỡi tì vào chân hàm răng trên. Chỉ thở bằng mũi. Khi tập, chú ý dồn trọng lượng vào chân bằng lối song trọng và đơn trọng.

2. Ngựa Kim Kê:

Bàn chân phải ở sau đặt nằm ngang, gối chân phải rùn thấp, trọng lượng toàn thân dồn về chân phải. Bàn chân trái ở trước duỗi xuôi và chấm đầu ngón chân cái xuống đất. Hai tay nắm cú thủ vào hai bên hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước. Nên nhớ phải tập đều phía trái và phía phải và khi chuyển ngựa sang phía trái, phải chỉnh ngựa đúng với tư thế "Ngựa Kim Kê".

3. Ngựa Chữ Đinh:

Cách đứng ngược với "Ngựa Kim Kê". Bàn chân trái ở trước đặt nằm ngang (mũi bàn chân hướng về phía tay phải), gối trái rùn thấp xuống, chân phải ở sau chõi thẳng, đầu các ngón chân phải hướng thẳng giữa cạnh trong bàn chân trái ở vị trí trực giao.

Trọng lượng toàn thân, lúc đầu dồn về chân trái, lúc dồn về chân phải. Hai cú tay thủ vào hai bên hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

4. Ngựa Bát Quái:

Một biến dạng của "Ngựa Tứ Bình". Ta trụ "Ngựa Tứ Bình", sau đó xê dịch đầu bàn chân trái sang trái và vai trái cũng chuyển dịch theo. Trọng lượng toàn thân dồn vào chân phải sau nhiều hơn (khoảng bảy phần). Hai cú tay thủ vào hai bên hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước. Tập phía trái xong, ta chuyển sang tập phía chân bên phải.

5. Ngựa Định Thân:

Trụ "Ngựa Tứ Bình". Sau đó, bấm giữ đầu hai ngón chân cái vào mặt đất, chuyển dịch hai gót chân vào phía trong và đưa dần ra phía trước mặt đến khi hai gót chân và hai đầu ngón chân cái thẳng hàng nhau (nằm trên một đường thẳng). Nghĩa là hai bàn chân nằm ngang theo chiều hai vai và ngực. Hai cú tay thủ vào hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

6. Tọa ngựa:

Trụ "Ngựa Tứ Bình", sau đó ép sát hai gối lại, đầu hai ngón chân cái xê dịch ra phía ngoài, ngồi sát xuống đất, hai mông đít hơi kề sát vào hai gót chân. Hai đầu gối phải sát mặt đất.

Trọng lượng toàn thân dồn vào hai ngón chân cái. Nhớ phải tập theo cách "đơn trọng" và "song trọng". Hai cú tay thủ vào hai bên hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

7. Ngựa Độc Cước:

Trụ "Ngựa Tứ Bình". Một chân co lên, gối ngang với vế, bàn chân dưới thẳng và đặt song song với vế chân trụ. Trọng lượng toàn thân dồn về chân trụ. Hai cú tay thủ ngang hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước.

Chú ý: Tập đều hai bên trái và phải.

8. Ngựa đôi:

Một kiểu "ngựa" dùng để di chuyển. Đứng "Ngựa Kim Kê" hay "Bát Quái". Đứng chân trái trước, chân phải sau hay ngược lại. Khi tập luyện, đưa chân sau đến sát chân trước, đồng thời rút chân trước rút về phía trước. Khi lui ra, rút chân trước về sát chân sau, đồng thời chân sau xê dịch về sau. Tương tự khi sang trái hay phải. Bỏ chân trước qua thì kéo chân sau theo, hoặc tránh chân sau qua phải thì kéo chân trước theo. Trong luyện tập nên nhớ "Đi như lá", "Đứng như đá". Hai tay thủ quyền kín, chỉnh "ngựa" cho thích hợp với tư thế "ngựa" mới.

9. Ngựa Âm-Dương:

Đứng như "Ngựa Định Thân" sau đó đưa bàn chân trái đặt trước bàn chân phải. Khoảng cách giữa hai bàn chân khoảng 30 cm. Hai tay vẫn thủ ngang hông. Mắt nhìn thẳng về phía trước.
Kỹ thuật căn bản của một số môn võ cổ truyền Bình Định: Nhãn pháp và Khí pháp

* Nhãn pháp: (đôi mắt)

Cấu tạo một bài quyền bao gồm lời thiệu và động tác, từ các bộ phận riêng lẻ liên kết với các bộ phận toàn cầu. Một bài quyền không những thể hiện đúng động tác, mà còn yêu cầu thể hiện cho được sức sống (linh hồn) của bài quyền đó, mà yếu tố quan trọng là thể hiện ở đôi mắt. Đôi mắt có lúc nhìn thẳng, có lúc phải liếc ngang, liếc dọc, có lúc phải nhìn ngược lên, tùy theo yêu cầu đối với từng động tác của bài quyền. Tốc độ nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu đều thể hiện ở đôi mắt. Có một số võ sĩ thực hiện một bài quyền rất trọn vẹn, động tác đúng, dứt khoát, nhưng xem ra bài quyền đó không có hồn vì chưa thể hiện được sức sống và phong thái nhịp nhàng của đôi mắt (chưa làm cho đôi mắt biết nói). Trái lại, có một số võ sĩ vì quá chú ý đến cái nhìn của đôi mắt nên quá cường điệu vai trò của đôi mắt mà không thể hiện yêu cầu và phối hợp được các động tác toàn bài, như vậy cũng không thể hiện được trọn vẹn cái hồn của bài quyền.

Nét mặt thể hiện vui vẻ, tươi sáng, hay buồn bực trầm lặng qua cái nhìn của đôi mắt, cũng góp phần thể hiện sức sống mãnh liệt, cương nghị hay im lìm yếu ớt.

Khi tập luyện đôi mắt đủ uy lực, sắc sảo thì chính nó trở thành vũ khí sắc bén để uy hiếp tinh thần hoặc đánh lừa đối phương, làm cho đối phương khiếp sợ, lúng túng, mất tinh thần dẫn đến giảm sút ý chí chiến đấu và rơi vào thế bị động, hoang mang.

Để tăng cường sự sôi động, hay thể hiện sức mạnh của động tác, có võ sĩ kết hợp la hét hay dậm chân, cũng góp phần thể hiện sức sống mãnh liệt của bài quyền. Không nên quá lạm dụng kỹ xảo này mà làm giảm ý nghĩa và tính nghệ thuật của bài quyền.

* Khí pháp (thở)

Mỗi tế bào, mỗi tổ chức và mọi hệ thống trong cơ thể đều cần đến năng lượng. Muốn có năng lượng, cơ thể cần được tiếp nhận các chất dinh dưỡng như: đường (gluxit), đạm (Protít), mỡ (Lipit), ôxy (lấy từ không khí khi ta hít vào), các tổ chức cơ quan và các hệ thống trong cơ thể luôn luôn cần ôxy. Nếu thiếu ôxy thì các tế bào trong cơ thể sẽ hoạt động rối loạn và có thể dẫn đến ngừng hoạt động. Trong đó, tế bào thần kinh bị ảnh hưởng sớm nhất, chỉ cần 5-10 phút thiếu ôxy, hệ thống hô hấp không hoạt động được có thể dẫn đến tử vong.

Thở còn là hoạt động tống khí cacbonic ra ngoài cơ thể, các cặn bã của cơ thể được máu vận chuyển sang hệ thống hô hấp và hệ thống bài tiết để thải ra ngoài. Trong lúc làm việc khẩn trương hay vận động cơ thể với cường độ cao, hoặc đánh một bài võ với tốc độ nhanh, đòi hỏi hệ thống hô hấp làm việc khẩn trương, thở nhiều lên, nhịp thở tăng lên 30-40 lần, hay nhiều hơn nữa so với lúc cơ thể hoạt động bình thường. Tập võ nhẹ nhàng buổi sáng để khởi động toàn diện cho cơ thể, thở nhẹ nhàng, phối hợp lúc này là nạp đủ năng lượng ôxy cho máu, chuẩn bị đầy đủ năng lượng cho một ngày lao động mới.

Động tác thở sâu trong lao động cung cấp đầy đủ ôxy cho cơ thể, đặc biệt là bù đắp lượng lớn ôxy tiêu hao do cơ thể làm việc với cường độ cao. Nghỉ giữa giờ tập võ chú ý luyện thở và thở sâu để nhanh chóng thải khí cacbonic ra ngoài, đồng thời thu khối lượng ôxy thiêu đốt lượng axit lactic sinh ra trong quá trình tập luyện và lao động, để có đủ năng lượng phục hồi cho chất đường của tế bào trong cơ thể và bù đắp lượng ôxy trong máu hao hụt. Nhờ vậy, các cơ bắp, tứ chi sẽ bớt mệt mỏi, thần kinh trở lại minh mẫn và linh hoạt. Ngoài ra, thở sâu còn làm giảm áp lực trong lồng ngực để tim hút máu tĩnh mạch về nhanh hơn.

Đi một bài quyền có lúc nhanh, lúc chậm, thở cũng phải có lúc nhanh, lúc chậm, thậm chí có lúc nín thở tạm thời là để thể hiện tốc độ, biên độ, mật độ và cường độ của động tác. Thực hiện động tác nhanh với mật độ cao, biên độ hẹp hòi đòi hỏi nhịp thở phải nhanh. Trái lại, thực hiện động tác chậm, cường độ thấp, biên độ rộng và mật độ thưa thì nhịp thở chậm. Có lúc động tác ngừng gấp đột ngột, là thể hiện trước hết ở các cơ bắp tay, chân và khống chế vùng cơ bụng, thì lúc này bắt buộc phải nín thở tạm thời.

Luyện thở cũng như luyện khí công, phải tập trung chú ý cao độ ở tâm, đặt trọng tâm ở bụng thì phải thở bằng lồng ngực, tận dụng tối đa hết cả khoang bụng để thở. Lúc này yêu cầu phải thở đều và sâu, hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng. Điều này nói lên khi biên soạn một bài võ nên cấu tạo cương nhu phối hợp hài hòa giữa động tác tấn công nhanh, mạnh với động tác linh hoạt nhẹ nhàng. Ra đòn phải nhanh, bất ngờ, phòng thủ phải kín đáo, thể hiện cho được ba yếu tố như: nhanh, mạnh, cứng như đá, kín chặt, nhẹ như lá, và nửa thật, nửa hư, nhằm đánh đối phương cho nên quá trình luyện thở có vị trí cực kỳ quan trọng khi thực hiện động tác võ.

Luyện thở là một bộ phận trong phương pháp luyện tập nội lực (khí công), tăng sức chịu đựng trong cơ thể.

Thở đầy đủ và đúng phương pháp không những ảnh hưởng tốt đến hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, mà còn ảnh hưởng đến hệ thần kinh và quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Vì vậy, cần luyện thở để nâng cao chức năng hô hấp, đáp ứng yêu cầu hoạt động bền bỉ, chống mệt mỏi trong cơ thể khi luyện tập và thi đấu võ thuật, đặc biệt là trong thi đấu đối kháng đỉnh cao.
Bắn ná - Môn thể thao truyền thống của đồng bào vùng cao Bình Định


Cây ná mà đồng bào các dân tộc phía Bắc gọi là cây nỏ được các già làng, các nghệ nhân có nhiều kinh nghiệm cất công lên tận núi cao để chọn được những lõi cây chắc có độ nhún thật dẻo, thật bền để làm thân ná, tìm những sợi dây rừng phải thật bền, thật dẻo để làm dây cung. Cái lẩy làm cò ná cũng đảm bảo chắc chắn có độ trơn để bật mũi tên đi xa trúng đích. Mũi tên được vuốt trau chuốt tỉ mỉ bằng tre già nhọn hoắc đủ sức xuyên qua tấm ván mỏng và nếu tẩm thêm thuốc độc gia truyền ở đầu tên thì khả năng sát thương rất cao, có thể hạ được những con heo rừng hàng tạ. Cây ná của đồng bào H'rê An Lão có thân thon thả mà sức bật của mũi tên thật xa. Còn ná của đồng bào Bana Vĩnh Thạnh thì chắc chắn, dây ná cứng có sức mạnh tên lao vun vút. Và dù đích 15 hay 20 mét xa phía trước, mũi tên cũng được các xạ thủ đưa đúng vào mục tiêu. Vào dịp hội làng, ngày hội văn hoá - thể thao ở các xã vùng cao bao giờ cũng có cuộc thi môn bắn ná trúng đích thu hút đông đảo bà con tham gia thi đấu và cổ vũ nhiệt tình cho các xạ thủ của mình. Bia bắn tự tạo được gắn trên các thân cây chuối ghép lại ngăn được sức xuyên của mũi tên bay xa. Các xạ thủ là những chàng trai khoẻ mạnh quen với những cuộc săn thú quanh năm, là những cô gái có đôi mắt sáng long lanh, tinh anh để nhìn rõ mục tiêu phía trước. Cánh tay xạ thủ thật rắn chắc mới lên được dây ná, nếu không phải nhờ người khác lắp tên thì sẽ mất uy. Khoảng cách bắn ná từ chỗ đứng bắn đến tấm bia có độ dài 15 mét. Ở các cuộc thi tại buôn làng thường sử dụng bia di động rất linh hoạt đòi hỏi các chàng trai, cô gái Bana, H'rê nhanh mắt nhanh tay lảy cò trúng đích. Trong ngày hội văn hoá - thể thao dân tộc tỉnh Bình Định lần thứ tư tổ chức tại Hoài Ân vừa qua, cuộc thi bắn nỏ của các vận động viên nam nữ rất sôi nổi diễn ra từ sáng đến 12 giờ trưa. Mặc trời nắng nóng, mặc gió thổi mạnh các xạ thủ trầm tĩnh dang thẳng cây ná về phía trước, nheo mắt, nín thở, bóp cò. Các xạ thủ Bana huyện Tây Sơn với tay ná xuất sắc Đinh Nhon chàng trai làng Vĩnh An ba phát trúng đích giành giải nhất. Cô gái Đinh Thị phước (Vân Canh) và Đinh Thị Đoài (Vĩnh Thạnh) đồng điểm cao nhất giành phần thưởng xứng đáng của hội thi. Cũng phải kể đến các nữ đấu thủ Đinh Thị quanh (Hoài Ân), Nam xạ thủ Đinh Diêm của Tây Sơn đạt tới 25 điểm ở các lần bắn chính thức. Theo vận động viên Đinh Thị Đoài thì bắn ná ở nhà dễ trúng đích hơn, đỡ run hơn và đã bắn là trúng hồng tâm. Đây là những nữ xạ thủ rất xuất sắc và có truyền thống gia đình được hưởng tài bắn ná bách phát bách trúng của ông cha trong nhà. Nhiều gia đình bà con người H'rê, Bana coi cây ná cũng là một bảo vật trong nhà được truyền qua nhiều đời và nó được giữ gìn, nâng niu, trau chuốc kỹ lưỡng. Cái ná của anh Đinh Kri (An Lão) người đạt huy chương bạc toàn quốc đã được anh chăm sóc, bảo quản thật hết ý. Anh kể rằng từ đời ông nội đã làm ra cây ná này, đây là ná được thay nhiều lần nhưng cánh ná, thân ná và lẫy ná vẫn như cũ, đen bóng, ánh lên những nét lóng lánh như gương thật đẹp, thật quý. Đinh Kri được cha truyền lại cây ná và kỹ thuật bắn siêu hạng nên đẫ giành được huy chương trong cuộc thi bắn ná toàn quốc vừa qua trước các tay ná hàng đầu của Việt Bắc, Tây bắc và Tây Nguyên.

Hàng năm cứ vào mùa xuân, mùa lễ hội, lũ làng lại tập trung cùng nhau múa hát, cùng nhau uống rượu cần và bây giờ các chàng trai, cô gái còn biết đánh bóng chuyền, chơi nhiều trò chơi dân gian: đẩy gậy, kéo co, leo núi... rất vui vẻ nhưng sôi nổi nhất vẫn là cuộc thi bắn ná của buôn làng. Người già làm trọng tài, lũ con gái đứng trầm trồ chỉ trỏ với trái tim, đuôi mắt hướng về các tay ná tài giỏi với nụ cười e thẹn. Các buổi thi bắn ná ở các xã vùng cao huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh đã làm tăng thêm niềm vui, tăng thêm sức mạnh của lũ làng, của đồng bào vùng cao tỉnh ta./.
Lời thiệu và những động tác minh họa bài quyền Ngọc Trản

Lời thiệu và những động tác minh họa bài quyền Ngọc Trản
15:3', 15/9/ 2004 (GMT+7)
Trong các bộ môn về quyền thuật của võ cổ truyền Bình Định, không thể không đề cập đến bài quyền "Ngọc Trản" bởi lẽ đây là "bài ruột" mang đầy đủ các yếu tố cơ bản và là một trong những bài chính thống, tiêu biểu, được tất cả các môn phái trong tỉnh truyền dạy và phổ biến rộng rãi trong nhân dân từ xưa đến nay.

Bài quyền Ngọc Trản có lối đánh công phu, toàn diện, kín đáo, chắc đòn, kết hợp nhu cương đúng lúc, đúng chỗ. Lại có những thế né tránh, phản đòn rất lợi hại. Di chuyển nhẹ nhàng, nhanh nhạy, linh hoạt, khi trụ ngựa và ra đòn thì vững chắc và mạnh.

Bộ tay ra đòn mạnh, nhanh, chính xác, có lúc vờ như thủ để đánh lừa đối phương, hay dụ đối phương với thế vây hãm để tiêu diệt theo dạng "Hư hư thực thực".

Đặc biệt vừa qua, Ban nghiên cứu (Sở TDTT Bình Định) cũng đã phát hiện một số tư liệu cổ đều có ghi tên bài thiệu về quyền "Ngọc Trản". Để góp phần làm sáng tỏ và đi đến thống nhất tên gọi, lời thiệu với từng động tác một cách chuẩn xác hơn, chúng tôi xin giới thiệu cụ thể bài quyền Ngọc Trản.

Qua bài thiệu cổ mới phát hiện của bài Ngọc Trản, ta nhận thấy tính liên hoàn âm-dương được xuyên suốt.

Ví dụ như: Hoành Tả, Tọa, Bạch xà lan hổ.

Thì: Hữu hoành sát, Thanh long biên giang, Phụ tử tương tùy

Và: Hoành hữu, tọa, bạch xà lan lộ,

Thì: Tả hoành sát, Thanh long biên giang, Phụ tử tương tùy.

So sánh các bài thiệu cổ mới phát hiện với bài thiệu đã lưu hành hiện nay có một vài chỗ khác biệt. Có lẽ người đời sau đã ghi nhầm, hay tam sao thất bổn.

Ví dụ: Hoành Tả, Tọa, bạch xà lan lộ.

Thì lại: Tả hoành sát, Thanh long biên giang.

"Hoành Tả" và "Tả Hoành" không mang tính âm-dương, ngũ hành của người xưa về cách cấu trúc một bài võ trong võ cổ truyền Bình Định.

Qua thời gian, bài quyền Ngọc Trản vẫn sáng chói như một chén ngọc. Số vốn quý võ công đã được gói ghém trong đó cũng được lưu truyền cho những người có đạo đức tốt, có tấm lòng vì con người, vì nền võ học của dân tộc.

Ngọc Trản còn có nghĩa: "Ngọc" là sự trong sáng, trung thực, phản chiếu sự vật được thể hiện ý niệm, trí tuệ. "Trản" là san bằng mọi chướng ngại mang tính đối phó ở giai đoạn đầu, tức hóa giải và có hài hòa ở giai đoạn cuối được thể hiện ở tay, chân và thân mình. Trong đó dĩ nhiên cần phải tính đến công sức luyện tập tinh nhuệ của thể chất, ý thức được thống nhất thành một ý niệm duy nhất. Ý niệm đó chuyển toàn bộ như tính thuần khiết của viên ngọc. Đó là một bí quyết luyện tập của lối quyền âm-dương trong Ngọc Trản công.

a) Nội dung bài thiệu cổ về quyền "Ngọc Trản" được trích trong tập tư liệu Hán-Nôm được phát hiện tại từ đường dòng họ Trương ở xã Mỹ Hòa-Phù Mỹ do ông Trương Đức Hồng cung cấp, ông Phạm Đình Phong sưu tầm.

* Phần Phiên âm:

1. Ngọc Trản ngân đài.
2. Tả, hữu tấn khai thập tự.
3. Luyện diệp liên hoa.
4. Đả sát túc, tọa, hồi mai phục.
5. Tấn đả tam chiến
6. Thoái thủ nhị linh.
7. Hoành tả, tọa, bạch xà lan lộ.
8. Hữu hoành sát thanh long biên giang.
9. Phụ tử tương tùy.
10. Hoành hữu, tọa, bạch xà lan lộ.
11. Tả hoành sát thanh long biên giang.
12. Phụ tử tương tùy.
13. Hồi tàng địa hổ.
14. Song phi, quyển dực.
15. Hạ bàn đoản đả.
16. Hồi, tiểu tọa khai cung.
17. Huỳnh long quyển địa.
18. Tấn, đả song quyền.
19. Hoành tả, phục hạc khai linh.
20. Trực tiền quyển địa.
21. Tấn, đả song quyền.
22. Hoành hữu, phục hạc khai linh.
23. Trực tiền quyển địa.
24. Tấn, đả song quyền.
25. Hướng, hậu đả thập tự.
26. Diện tý.
27. Hồi, tẩu mã giang tiên.
28. Bái tổ, lập như tiền.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 6:52 am

* Dịch nghĩa:

1. Chén ngọc đài vàng.
2. Tiến, mở thế chữ thập bên trái và bên phải.
3. Chọn lá liền hoa.
4. Đánh sít chân, tọa thế "hồi mai phục".
5. Tiến, đánh ba bận.
6. Lui, hai tay sắc sảo.
7. Xoay trái, tọa thế "Bạch xà lan hộ" (con rắn trắng qua đường cỏ).
8. Chém ngang bên phải bằng thế "thanh long biên giang" (con rồng xanh trên sông bên).
9. Thế cha con nương tựa nhau.
10. Hoành bên phải, tọa thế "Bạch xà lan hộ" (con rắn trắng qua đường cỏ).
11. Hoành bên trái quét thế "thanh long biên giang" (con rồng xanh trên sông bên).
12. Thế cha con nương tựa nhau.
13. Trở về thế rắn hổ đất núp.
14. Đá song phi (hai chân bay) rồi thế chim cuốn cánh.
15. Đánh vắt mâm dưới.
16. Về, tọa, xổm mở cánh cung.
17. Thế rồng vàng cuốn đất.
18. Tiến đánh hai đấm.
19. Xoay trái, thế "phục hạc khai linh" (chim hạc giúp phơi cánh).
20.Thế cuốn đất, đánh thẳng phía trước.
21. Tiến đánh hai đấm.
22. Xoay phải, thế "phục hạc khai linh" (chim hạc giúp phơi cánh).
23. Thế cuốn đất, đánh thẳng phía trước.
24. Tiến đánh hai đấm.
25. Chuyển phía sau đánh thế chữ thập.
26. Mặt nhìn hướng tý (hướng Bắc).
27. Trở về thế "tẩu mã giang tiên" (ông tiên ruổi ngựa trên sông).
28. Vái tổ, đứng như trước.

b) Những động tác trong bài quyền Ngọc Trản:

- Đứng theo tư thế dịch cân, thủ môn hiệu theo võ Bình Định, lễ tổ, mắt nhìn thẳng ra phía trước.

- Ở bộ vị, trụ ngựa theo tư thế ngựa tứ bình. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

- Ở bộ vị, dương quyền ở hai tay trái và phải ở bộ vị, xòe hai chưởng, sau đó tay phải theo dương chưởng, tay trái theo âm chưởng, áp sát vào nhau thủ sát nơi chấn thủy. Bái tổ. Hai mắt nhìn thẳng.

Ngọc trản, ngân đài:

Ngọc trản: Ở bộ vị, tay phải đưa lên bên bắc lần theo thượng bộ trái qua phải. Cùng lúc chân trái bước lên trước một bước đứng theo tư thế ngựa kim kê. Đồng thời tay trái thủ quyền đâm ra trước theo quy tắc dương-âm quyền; tay phải đánh giật chỏ về sau, thủ dương quyền nơi thắt hông bên phải. Hai mắt nhìn phía trước

*Ngân đài: Ở bộ vị giữ y tư thế, tay trái xòe dương đao, theo hướng đạo từ trái qua phải. Đồng thời, tay phải đánh thẳng nắm lên từ dưới lên trên, cùng lúc dương đao tay trái thủ dưới chỏ tay phải, hông tay bên phải. Hai mắt nhìn phía trước.

Tả, hữu, Tấn, Khai, Thập tự:

*Tả: Ở bộ vị, tay trái bắt dương đao lên từ phải sang. Đồng thời, chân phải bước lên phía trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc, tay phải đánh âm đao từ trên xuống. Đồng thời, âm-dương đao đâm thẳng ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng trước.

*Hữu: Ở bộ vị, tay phải bắt dương đao lên từ trái sang phải. Đồng thời, chân trái bước tới phía trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay trái đâm đao từ trên xuống. Đồng thời, âm-dương đao đâm thẳng ra trước. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

*Tấn: Ở bộ vị, chân phải ở sau bước tới một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay phải thủ dương quyền, tay trái thủ âm quyền đánh thẳng từ phải, trái vào thủ âm dương quyền nơi trước ngực. Hai mắt nhìn về phía trước.

*Khai: Ở bộ vị, chân phải ở trước bỏ về phía sau một bước, đứng theo tư thế ngựa tứ bình, cùng lúc hai âm-dương quyền mở (xé) từ trong ra hai bên trái, phải ở phần trung bộ. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

*Thập tự: Ở bộ vị, chân phải ở sau giở lên, bỏ nhảy về phía sau một bước, đồng thời ngồi sát xuống, cùng lúc chân trái ở trước kẹp sát nhượng, bàn chân thẳng xuôi lót sát vào mông bên trái, trụ theo ngựa Thập Tự. Cùng lúc tay phải ở sau nắm dương quyền thủ ngang trên trán, tay trái ở trước nắm âm quyền thủ dưới mông bên trái. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Luyện diệp Liên Hoa (Đánh ba lần):

* Lần 1: Ở bộ vị, tay trái bắt âm chưởng lên, từ phải sang trái. Cùng lúc ngửa nhổm đứng lên, chân phải ở sau bước tới trước một bước, đứng tư thế ngựa kim kê. Đồng thời, tay phải đánh dương chưởng theo. Cùng lúc đánh thẳng hai chưởng âm-dương ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Lần 2: Ở bộ vị, tay phải bắt âm chưởng lên từ trái sang phải. Đồng thời tay trái bước tới trước một bước, đứng tư thế ngựa kim kê, cùng lúc tay trái đánh dương chưởng theo. Đồng thời, đánh thẳng hai chưởng âm-dương ra trước. Hai mắt nhìn phía trước.

*Lần 3: Ở bộ vị, tay trái lại bắt âm chưởng lên từ phải sang trái, chân phải ở sau bước tới một bước, đứng tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay phải đánh dương chưởng theo, đồng thời, hai âm chưởng ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Đả sát túc, Tọa, hồi mai phục:

* Đả sát túc: Ở bộ vị, chân trái ở sau đá thẳng ra trước. Ngồi thấp ngựa xuống, cùng lúc tay trái ở trước đâm thẳng nắm quyền từ trên xuống đất. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Tọa, hồi mai phục: Ở bộ vị, chân phải ở sau giở lên cùng lúc nhảy về sau một bước. Tọa ngựa, tay phải thủ dương quyền ngang lên trán. Tay trái thủ âm quyền trước gối chân trái ở trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Tấn đả tam chiến:

* Lần 1: Ở bộ vị, nhổm ngựa lên, chân phải bước tới trước một bước đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay phải đánh dương quyền từ trên xuống, từ phải sang trái. Đồng thời, tay trái ở sau nơi hông bên trái đâm thẳng quyền ra trước theo âm dương quyền. Tay phải thu về thủ nơi hông phải. Hai mắt nhìn phía trước.

* Lần 2: Ở bộ vị, tay trái giữ y tư thế, chân trái ở sau, bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay trái đánh quyền từ trên xuống theo dương quyền. Đồng thời, tay phải ở sau đâm thẳng âm dương quyền từ hông phải ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Lần 3: Ở bộ vị, tay phải giữ y thế, chân phải ở sau bước tới một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay phải đánh quyền từ trên xuống theo dương quyền đồng thời tay trái ở sau đâm thẳng dương âm quyền từ hông trái ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Thoái thủ nhị linh:

Ở bộ vị, chân phải ở trước, bỏ về sau một bước, đứng ngựa theo tư thế ngựa kim kê. Đồng thời, đánh thẳng sát hai nắm quyền từ dưới lên trên theo chiều mu bàn tay hướng về phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hoành tả, Tọa, Bạch xà lan lộ:

* Hoành tả: Ở bộ vị, chân trái ở trước, bỏ qua bên trái một bước đứng theo tư thế ngựa ngang về bên trái. Đồng thời, tay trái thủ âm quyền ngang trên trán; tay phải thủ dương quyền theo hông bên phải. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Tọa: Ở bộ vị, chân trái ở bên tả, giở lên nhảy về bên trái một bước, đồng thời tọa ngựa xuống. Tay trái thủ âm quyền ngang trên trán, tay phải thủ dương quyền trước gối bên phải. Hai mắt nhìn thẳng về trước.

* Bạch xà lan lộ: Ở bộ vị, chân phải bước tới trước một bước, đứng theo tư thế bộ hạ, cùng lúc thân pháp hướng ra phía trước, ngực bên phải áp sát chân phải ở phía trước. Đồng thời tay phải ở phía trước thủ xà chỉ đánh thẳng từ sau ra trước; tay trái đánh xà chỉ về sau. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hữu hoành sát, Thanh long biên giang:

Hữu hoành sát: Ở bộ vị, chân phải ở trước đánh xé ngang qua bên phải, đồng thời tay phải thủ âm quyền theo chân phải, tay trái thủ dương quyền trên trán. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

*Thanh long biên giang: Ở bộ vị, giữ y bộ vị ngựa, tay phải đánh âm quyền từ dưới lên, tay trái đánh dương quyền từ trên xuống. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Phụ tử tương tùy:

Ở bộ vị, chân trái ở bên trái, bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê, cùng lúc hai tay áp sát hai âm quyền đánh thẳng từ dưới lên. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hoành hữu, tọa, bạch xà lan lộ:

* Hoành hữu: Ở bộ vị, chân phải ở sau, bỏ ngang qua bên phải một bước, đứng theo tư thế ngựa bên phải; đồng thời tay phải thủ âm quyền ngang trên trán; tay trái thủ dương quyền theo hông bên trái. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Tọa: Ở bộ vị, chân phải ở bên phải giở lên nhảy về bên phải một bước, đồng thời tọa ngựa xuống, tay phải thủ âm quyền ngang trên trán, tay trái thủ dương quyền trước gối bên trái. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Bạch xà lan lộ: Ở bộ vị, chân trái bước tới trước một bước, đứng theo tư thế bộ hạ, cùng lúc thân pháp hướng ra phía trước, ngực bên trái áp sát gối bên trái ở phía trước. Đồng thời, tay trái ở trước thủ xà chỉ đánh thẳng từ sau ra trước, tay phải đánh xà chỉ về sau. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Tả hoành sát, Thanh long biên giang:

* Tả hoành sát: Ở bộ vị, chân trái ở trước đánh xé ngang bên trái, đồng thời tay trái thủ âm quyền theo chân trái, tay phải thủ dương quyền trên trán. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Thanh long biên giang: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, tay trái đánh âm quyền từ dưới lên, tay phải đánh dương quyền từ trên xuống. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Phụ tử tương tùy:

Ở bộ vị, chân phải ở bên phải bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê, cùng lúc hai tay áp sát hai âm quyền đánh thẳng từ dưới lên. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hồi tàng địa hổ:

Ở bộ vị, chân phải ở trước, bỏ theo phía trước về phía sau một bước. Đồng thời, tay phải đánh vắt dương chưởng từ sau ra trước, từ dưới lên trên, tay trái thủ âm chưởng trên trán; cùng lúc chân trái giở lên, nhảy về phía sau một bước, trụ theo tư thế hổ tấn. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Song phi quyển dực:

* Song phi: Đá, đánh ba lần.

Ở bộ vị, nhún nhảy cao người trên mặt đất, đồng thời chân trái đá theo phía trước, cùng lúc tay trái đánh dương quyền theo từ trên xuống dưới. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, tiếp tục nhảy cao người đá chân phải ra phía trước cùng lúc tay phải đánh dương quyền theo từ trên xuống dưới. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

Ở bộ vị, tiếp tục nhảy cao người, đá chân trái ra phía trước, đồng thời đánh dương quyền tay trái từ trên xuống dưới. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Quyển dực: Ở bộ vị, chỏ tay trái đánh cuộn tròn từ trước ra sau, đồng thời đánh dực chỏ trái từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hạ bàn, đoản đả:

* Hạ bàn: Ở bộ vị, chân phải ở trước đánh xé ngang gót chân sát mặt đất từ phải sang trái, đồng thời tay trái đánh vớt âm quyền theo từ phải sang trái, từ dưới lên trên. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Đoản đả: Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay phải ở bên phải đánh thẳng dương quyền từ sau ra trước, từ trên xuống dưới. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, chân phải ở bên phải đạp thẳng gót chân ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hồi tiểu họa, khai, cung:

* Hồi tiểu họa: Ở bộ vị, chân trái ở sau giở lên nhảy về sau một bước, tọa ngựa, tay phải thủ dương quyền nơi gối chân phải ở trước, tay trái thủ âm quyền trên trán. Hai mắt nhìn phía trước.

* Khai, cung: Ở bộ vị, chân trái ở sau bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa tứ bình. Đồng thời, đánh xé hai nắm quyền từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, chân phải ở sau bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay phải thủ dương quyền, tay trái thủ âm quyền đánh móc ngang từ ngoài vào trong, âm-dương quyền thủ trước ngực. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Huỳnh long quyển địa:

Ở bộ vị, chân trái ở sau bỏ về sau một bước. Đồng thời triển người về sau. Hai bàn tay chụp xuống sát mặt đất, cùng lúc đánh ngược lại từ dưới lên, từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, bàn chân trái ở sau rút lên sát bàn chân phải ở trước, đồng thời chân phải ở trước bỏ về sau một bước, thân người triển về phía sau, cùng lúc chụp hai bàn tay xuống sát mặt đất. Đồng thời đánh ngược lại, từ dưới lên, từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

Tấn, đả, song quyền:

Tấn: Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay phải ở sau đấm thẳng âm quyền ra trước, tay trái thủ dương quyền nơi hông trái. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Đả: Ở bộ vị, chân phải ở sau đá trước thẳng gót chân từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

* Song quyền: Ở bộ vị, tay trái ở sau đang thủ dương quyền đâm thẳng âm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y bộ vị ngựa, chân phải ở trước, chân trái sau; tay phải ở trước đang thủ dương quyền, đâm thẳng âm quyền ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hoành tả, phục hạc khai linh:

Hoành tả: Ở bộ vị, chân trái ở sau bỏ ngang qua bên trái một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê, tay trái thủ âm quyền trên trán, tay phải thủ dương quyền nơi mông đùi phải. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Phục hạc khai linh: Ở bộ vị, chân trái ở bên trái, bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc tay trái đánh âm chưởng theo từ trên xuống, tay trái sang phải. Tay phải thủ dương chưởng trên trán. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay trái ở trước tiếp tục đánh ngược lại theo dương chưởng. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, hai tay thủ hạc chỉ, tay trái ở trước đánh hạc chỉ từ trên xuống; tay phải ở sau đánh hạc chỉ từ dưới lên. Hai tay thủ theo hạc chỉ âm dương. Hai mắt nhìn phía trước.

Trực tiền quyển địa:

bộ vị, chân phải ở sau, quét bàn chân sát mặt đất cong tròn từ sau ra trước, đứng theo tư thế ngựa bộ hạ. Cùng lúc hai tay bắt đánh hai dương quyền từ trên xuống, đồng thời đánh móc thẳng hai nắm quyền từ dưới lên. Hai mắt nhìn phía trước.

Tấn, đả, song quyền:

* Tấn: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, tay trái ở sau đấm thẳng, nắm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Đả: Ở bộ vị, chân trái ở sau đá thẳng từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Song quyền: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa chân trái trước, chân phải sau. Đồng thời tay phải ở sau đâm thẳng nắm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay trái ở trước tiếp tục đâm thẳng nắm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng về trước.

Hoành hữu, phục hạc khai linh:

* Hoành hữu: Ở bộ vị, chân phải ở sau, bỏ ngang qua bên phải một bước, đứng theo tư thế ngựa ngang, tay phải thủ âm quyền trên trán, tay trái thủ dương quyền nơi mông đùi chân trái. Hai mắt nhìn phía trước.

* Phục hạc khai linh: Ở bộ vị, chân phải ở bên phải, bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê. Cùng lúc, tay phải đánh căn chưởng theo từ trên xuống, từ phải sang trái; tay trái thủ dương chưởng trên trán. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay phải ở trước tiếp tục đánh ngược lại theo dương chưởng. Hai mắt nhìn phía trước.

Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, hai tay thủ hạc chỉ, tay phải ở trước, đánh hạc chỉ từ trên xuống, tay trái ở sau đánh hạc chỉ từ dưới lên. Hai tay thủ theo hạc chỉ âm-dương. Hai mắt nhìn phía trước.

Trực tiền quyển địa:

Ở bộ vị, chân trái ở sau, quét bàn chân sát mặt đất cong tròn từ sau ra trước, đứng theo tư thế ngựa bộ hạ. Cùng lúc hai tay bắt đánh hai dương quyền từ trên xuống, đồng thời đánh móc thẳng hai nắm quyền từ dưới lên. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Tấn, đả, song quyền:

* Tấn: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, tay phải ở sau đâm thẳng nắm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Đả: Ở bộ vị, chân phải ở sau, đá thẳng từ sau ra trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Song quyền: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, chân phải trước, chân trái sau. Đồng thời tay trái ở sau đâm thẳng ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Ở bộ vị, giữ y bộ vị, tay phải ở trước, tiếp tục đâm thẳng nắm quyền ra phía trước. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

Hướng hậu đả Thập Tự:

* Hướng hậu đả: Ở bộ vị, chân trái ở sau, đá theo chiều sau lưng cùng lúc thu chân về vị trí ngựa trước khi đá. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Thập tự: Ở bộ vị, chân trái ở sau giở lên, nhảy về sau một bước, tọa ngựa theo tư thế ngựa Thập Tự. Hai mắt nhìn phía trước.

Diện Tý:

Ở bộ vị, chân trái ở sau bỏ sang bên trái một bước, đứng theo tư thế ngựa ngang. Cùng lúc, tay trái đánh móc nắm quyền từ dưới lên, từ phải qua trái. Tay phải thủ âm quyền nơi cùi chỏ tay trái. Hai mắt nhìn phía trước.

Hồi tẩu mã giang tiên:

* Hồi tẩu mã: Ở bộ vị, giữ y tư thế ngựa, tay trái đánh dương quyền từ trái qua phải, từ trên xuống dưới. Tay phải thủ âm quyền ngang trên trán. Hai mắt nhìn thẳng phía trước.

* Giang tiên: Ở bộ vị, chân trái ở bên trái, bước tới trước một bước, đứng theo tư thế ngựa kim kê, cùng lúc, tay trái đánh móc thẳng nắm quyền từ dưới lên trên. Tay phải thủ âm quyền kề nơi chỏ tay trái. Hai mắt nhìn phía trước.

(Những động tác bái tổ hết bài thảo)

Bái tổ, lập như tiền:

Ở bộ vị, chân phải ở sau, bước tới trước một bước, bỏ về bên phải, đứng theo tư thế ngựa tứ bình. Cùng lúc tay phải thủ dương chưởng, tay trái thủ âm chưởng, áp sát nhau, thủ trước ngực, bái tổ. Hai mắt nhìn phía trước.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





VÕ BÌNH ĐỊNH Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: VÕ BÌNH ĐỊNH   VÕ BÌNH ĐỊNH I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
VÕ BÌNH ĐỊNH
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Bình thường
» Samadi là gì? ĐẠI ĐỊNH LÀ GÌ ?
» TỨ THIỀN BÁT ĐỊNH PHẬT GIÁO DƯỚI LĂNG KÍNH KHÍ CÔNG HỌC
» 27-012-12 TÌM HIỂU TÂMLINH ĐÔNG TÂY - CHỦ ĐỀ : MEDITATION , MANTRA , THIỀN ĐỊNH , CHÚ NGỮ.......
» KHẢO LUẬN VỀ THẦN THÔNG , PHÁP THUẬT , BÙA NGẢI , ĐẠO ĐỨC , NGHIỆP QUẢ QUA NHỮNG NHẬN ĐỊNH SAI LẦM XƯA NAY TRONG DÂN GIAN .

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ KHÍ CÔNG ĐÔNG PHƯƠNG :: VÕ THUẬT TINH HOA-
Chuyển đến