[28]Tức cửa biển Đại An (Hà Nam Ninh). Đại Ác là tên đời Lý của huyện Đại An.
[29]Nguyên văn: Nam Ninh, cũng tức là Nam Hải (dùng chữ của Trang Tử, đã dẫn).
[30]Nam Xương: tức là huyện Lý Nhân đời Nguyễn (nay thuộc Hà Nam Ninh).
[31]Chương Dương: tên xã thuộc huyện Thường Tín (Hà Sơn Bình).
[32]Tức là Thanh Hoa nội trấn (Thanh Hóa) và Thanh Hoa ngoại trấn (Ninh Bình) nay thuộc Hà Nam Ninh.
[33]Tức Bình Định, Khánh Hòa.
[34]Tức trấn Phiên An, sau nhập chung với trấn Gia Định thành tỉnh Gia Định.
[35]Phía đông thuộc dòng Đôminicô, phía tây thuộc dòng Phêrô.
Tên các địa phương ở đoạn cuối câu này, chúng tôi có xếp lại cho hợp thứ tự từ Bắc vào.
[36]Nguyên thư chép: nhị bách niên hậu (hai trăm năm sau) chắc là nhầm, bởi vì có câu nói tiếp theo: “… khi ấy ta sẽ đích thân phong thánh sống cho các ngươi (ngã ký dương diện phong nhữ đẳng vi sinh thần)”. Như vậy thì chỉ là “nhị thập niên hậu” chứ không thể là “nhị bách niên hậu” được.
[37]Mỗi khi nuốt được một nước, Tây Dương lại mở yến hội lớn và phong tặng cho kẻ có công. Cho nên nói lóng như vậy.
[38]Nguyên văn; “… sử mộc tương trùng điêu nhị nhân tượng…”. Nguyên thư chép chữ tượng (= thợ mộc) sai ra chữ tượng (= pho tượng); vì đồng âm mà chép nhầm.
[39]Nguyên văn: “trùng điêu nhị nhân tượng…”. Có lẽ vì ở đoạn trên đã nói các giám mục nước ta trước đó cũng đã có tượng để trong phòng kín cho nên ở đây nói khắc thêm tượng khác để đặt trước cửa cung điện (miến lập vu ký khuyết môn) thì viết là “trùng điêu”.
[40]Con tàu khổng lồ do Nôê đóng để tránh nạn đại thủy, sự tích đã nói ở Q. I.
[41]Tức là quyển IV hiện nay.
[42]Xem đó thì biết xưng tội, giải tội đều tùy theo ý chỉ bảo của bọn cha cố, nào có liên quan gì đến chúa Trời đâu?
[43]Nguyên văn: “Tân Dậu cửu niên hoàng triều khải vận”. Theo lối văn biên niên chỉ ghi niên hiệu một lần đầu sau lược (Ở trên đã ghi rõ niên hiệu Cảnh Thịnh). Năm này (1801) Cảnh Thịnh đã mất kinh đô Phú Xuân, nhưng đến giữa năm sau Gia Long mới lấy được Bắc Thành, lên ngôi ngày 31/5/1802.
[44]Không rõ tên làng các xã các xứ đạo do những giám mục ấy cai quản. Từ đó ở bốn trấn đều có đốc chính Tây Dương lén lút cai quản.
[45]Về sau không biết rõ bao nhiêu.
[46]Nguyên văn: “Ngã chú nhân thân (= người thân), nhân chú ngã thân”. Chữ chú vừa có nghĩa là cầu khấn đấng siêu nhiên, vừa có nghĩa là nguyền rủa. Ở đây tác giả dùng theo nghĩa thứ hai. Bạn đọc nhớ lại những nghi thức về lễ thụ phong, những lời niệm nhẩm khi làm phép xin dấu thánh cho người ốm khỏi chết, v.v, đã mô tả ở Q. IV.
[47]Thư kinh, Đại Vũ mô.
[48]Mạnh Tử, Ly Lâu. Nguyên cả câu của Mạnh Tử là: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (nghĩa là: Bất hiếu ba điều mà không có con nối dõi là tội lớn nhất). Ba điều bất hiếu mà Mạnh Tử không nêu ra đủ cả, theo Kinh Lễ là: 1. Vâng dạ cha mẹ trước mắt nhưng sau lưng làm trái ý; 2. Nhà nghèo có cha mẹ già không chịu ra làm quan để cho cha mẹ hưởng lộc; 3. Không lấy vợ, không sinh con để truyền đời thờ cúng tổ tiên. Câu nói trên đây nhắm vào điều thứ 3.
[49]Tức là từ quyển V trở xuống.
[50]Thạch tín (= tín thạch): một loại khoáng chất phi kim loại, ký hiệu As (Arsenic) màu trắng. Lúc đầu người ta tưởng rằng chỉ ở huyện Tín (Trung Quốc) mới có chất ấy nên gọi là tín thạch. Tính chất độc hại của nó (dẫn đến chết người) có lẽ là tính chất không hòa tan trong nước và dễ kết hợp với hóa chất khác thành chất kết tủa. Nguyên thư chép: “Thạch tin binh gia thạch tín mạt” (trong bình thạch tin đều là bột thạch tín) hẳn là chép sai. Xem nguyên chú ở cách vài câu sau nói: “… vợ Đức Đạt không ăn trầu…” thì biết rằng đó phải là bình vôi. Đúng ra là: “Thạch khôi bình giai thạch tín mạt”, chắc là do ảnh hưởng chữ sau (tín) mà chép lầm chữ trước (khôi).
[51]Vợ con Đức Đạt không ăn trầu, cho nên chỉ một mình Đức Đạt bị hại.
[52]Nattéo Rici (1552-1610), giám mục người Ý, đếu Trung Quốc năm Vạn Lịch thứ 8 (1580). Tiên phiên âm chữ Hán là LịMãĐậu.
[53]Yên Kinh tức Bắc Kinh.
[54]Chỉ Hán Minh đế.
[55]Mồng một và rằm.
[56]Kinh Dịch: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng…”. Tình trạng nguyên sơ của vũ trụ sinh ra lưỡng nghi tức là dương và âm (dương nghi, âm nghi), mỗi “nghi” lại tiếp tục sinh đôi ra nữa, v.v.
[57]Nguyễn Công Hãng giữa chức Thượng thư thời chúa Trịnh Sâm.
[58]Nguyên văn: Độc dược (thuốc độc), đây chỉ thuốc phiện, ở dưới đã nói rõ.
[59]Nguyên văn: A nha phiến.
[60]Mattéo Rici vào Trung Quốc đời Minh, nhưng còn sống đến đầu đời Thanh.
[61]Nguyên văn: hỗn tinh, ý nghĩa như thôn tính.
[62]Anh túc (cây thuốc phiện), tên khoa học: Papaver somniferum.
[63]Ngày trước thường gọi thuốc phiện là Ả phù dung, tức là a phù dung mà đọc theo âm Quảng Đông.
[64]Tức Liêu Ninh.
[65]Chỉ người Anh.
[66]Nguyên văn: “…dĩ thổ bồi dạng” (lấy đất đắp thành hình dạng), tức như ngày nay ta làm sa bàn.
Nguồn: Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1981.